Sách Tâm Linh

Đường Mây trên Đất Hoa

✍️ Mục lục: Đường Mây trên Đất Hoa

Chương XI:

Năm Dân Quốc thứ hai mươi ba (1934 – 1935), ta được chín mươi lăm tuổi. Thấy sức khỏe đã suy yếu, ta thỉnh lão pháp sư Từ Chu làm viện chủ, trông nom chương trình giáo dục tại Phật học viện Cổ Sơn.
Phần ta lui vào thất tu thiền tĩnh dưỡng. Đến tháng Hai, vào đêm nọ, trong lúc tọa thiền, tâm ta dường như đang mộng mà cũng chẳng phải mộng, ta thấy Lục Tổ Đại sư đến bảo: “Đã đến lúc rồi, Thầy hãy trở về!”. Hôm sau, ta bảo thị giả là Quán Tâm: “Duyên đời của thầy chắc không còn lâu đâu vì hôm qua Lục Tổ đã gọi thầy trở về!”. Thấy Quán Tâm buồn bã, ta bèn an ủi.
Đến giữa tháng Tư, ta lại mộng ba lần thấy Lục Tổ thúc giục ta trở về. Thật là việc lạ kỳ khiến ta không biết thế nào nhưng vài hôm sau, ta nhận được điện tín của chính quyền tỉnh Quảng Đông muốn thỉnh ta về sửa chữa đạo tràng của Lục Tổ. Ta nghĩ đến thánh địa đó, hiện tại rất cần tu bổ sửa sang vì lần sửa chữa cuối cùng là do ngài Hám Sơn (1546 –1623) đảm trách đã diễn ra từ mấy thế kỷ trước. Ta bèn thu xếp hành lý đi về Lĩnh Nam. Lúc đó, tướng Lý Hán Hồn đóng quân tại Quảng Đông, đã tận mắt thấy chùa Nam Hoa bị hư hoại nặng nề, nên ông tự cho sửa sang đôi chút, nhưng thấy còn nhiều việc phải làm nên có ý mời ta trông coi việc này.
Mùa đông năm đó, tại chùa Nam Hoa, chư tăng thỉnh ta làm lễ truyền giới. Vì phòng ốc, điện đường bị hư hoại, sụp đổ rất nhiều nên chúng tăng tạm cất những chòi tre để cho tăng chúng cư ngụ. Quan thân sĩ thứ vùng Quảng Châu và Triều Châu đến thọ giới quy y rất đông. Tối đến, khi ta đang truyền giới thì có một con hổ đến, như thể muốn thọ giới quy y, khiến toàn thể đại chúng đều hoảng sợ. Ta truyền tam quy y và thuyết giới cho hổ. Nó có vẻ như hiểu biết mà thọ nhận một cách thuần thục, thọ giới xong nó liền bỏ đi.
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan thân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện, thì cư sĩ Giang Khổng Ân, đang đứng trên lầu chuông bỗng phát hiện trước cửa chùa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Nhìn kỹ thấy rõ đó là hổ nên ông ta liền la lên. Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Hòa thượng Hư Vân bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống trước mặt ngài. Hòa thượng Hư Vân thuyết tam quy y, cùng dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẳm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi vào rừng, nhưng với bộ dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần trong những kỳ lễ lớn. Hòa thượng Hư Vân đôi khi đi ra rừng gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc hổ già quy y Tam Bảo tại chùa Nam Hoa thật rất kỳ lạ. Chính kẻ này được nghe Hòa thượng Hư Vân trong lúc thuyết giới có nói bài kệ:

“Hổ quy y Phật,
Tánh chánh không hai,
Tâm người, tâm thú,
Đồng tạng quang minh.”

Năm Dân Quốc thứ hai mươi bốn (1935 – 1936), tướng Lý Hán Hồn được thuyên chuyển đi nơi khác nên chùa mất đi một vị đại hộ pháp. Việc kiến lập tự viện ngày một khó khăn. Sau kỳ truyền giới, theo lời thỉnh mời của Đông Hoa Tam viện, ta qua Hồng Kông, kiến lập đàn tràng Thủy Lục tại vườn Đông Liên Giác Uyển. Sau đó, ta trở về Cổ Sơn, từ chức trụ trì, thỉnh lão Hòa thượng Thạnh Huệ kế nhậm chức vụ đó tại đây, rồi trở lại chùa Nam Hoa. Ta cho tu bổ lại chánh điện thờ chư Tổ Sư, xây điện thờ Bồ Tát Quán Thế Âm, và cất phòng xá. Tháng Chạp, nơi phía bắc đình Phục Hổ, thuộc phía nam suối Trác Tích, có ba cây tùng cổ thụ trồng từ đời Tống (960 – 1279), đã khô héo trong vài trăm năm nay, nay đột nhiên ra lá xanh tươi. Thủ tọa Quán Bổn có ghi lại việc lạ kỳ này. Bài ký sự được cư sĩ Sầm Học Lữ cho khắc trên đá tại chùa.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi lăm (1936 – 1937). Việc tu sửa điện đường phòng xá tạm thời hoàn tất. Tổng thống Dân Quốc, ông Lâm Tử Siêu, cùng tướng Tưởng Giới Thạch lần lượt đến thăm chùa. Ông Lâm Tử Siêu hỗ trợ việc xây cất trùng tu đại điện, còn tướng Tưởng Giới Thạch cúng dường tiền để mướn nhân công đào sửa lại con suối chạy ngang qua chùa. Tuy nhiên, vào lúc cuối, nhờ ơn chư Long Thần hộ pháp đã gia hộ nên không cần nhân lực mà vẫn hoàn thành.
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Xưa kia con suối này cách xa chùa Nam Hoa khoảng một trăm bốn mươi thước. Vì lâu năm không ai đào vét, nên cát đá trôi đến lấp đi, khiến dòng nước chảy ngược về hướng bắc, thẳng đến cửa chùa. Muốn đưa con suối trở lại hướng cũ, người ta ước lượng phải mướn khoảng ba ngàn nhân công vét suối, khai thông những khúc bị tắc nghẽn rất tốn kém. Ngày hai mươi tháng Bảy, chùa đang chuẩn bị khởi công vét suối thì tối hôm đó, trời đổ mưa rất to, nước lũ từ trên núi tràn xuống, khai thông những chỗ bị nghẽn. Sáng hôm sau, dứt mưa, nước suối chảy trở lại theo hướng mà chúng ta ước muốn. Đất đá bị nước đắp thành bờ đê cho con suối sau này, cao cả vài thước. Dường như Long Thần hộ pháp đã giúp đỡ chúng ta sửa lại hướng của con suối này.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi tám (1939 – 1940), Thế chiến thứ hai tại châu Âu phát khởi, các tỉnh Trung Hoa cũng đều bị nạn binh đao loạn lạc. Ta đề nghị là trong tình cảnh loạn ly, chiến tranh tàn khốc, binh sĩ cùng dân chúng bị thương vong rất nhiều, phàm là Phật tử, mỗi người phải phát tâm, thiết lễ đàn tràng, mỗi ngày sám hối hai giờ, cầu siêu độ cho các vong linh vất vưởng, cùng cầu nguyện tiêu tai giải nạn. Ta cũng đề nghị toàn thể đại chúng nên giảm bớt khẩu phần ăn của mình để dùng vào việc cứu giúp dân chúng. Lời đề nghị của ta được chấp thuận và thi hành. Năm sau, Quảng Châu bị vây hãm, quân dân chính phủ thoái lui về Chiết Giang. Tăng chúng các nơi chạy loạn đổ dồn về chùa mỗi ngày một đông. Ta bèn cho trùng tu chùa Đại Giám tại Chiết Giang, làm hạ viện của chùa Nam Hoa, để tiện việc tới lui và trùng tu thêm chùa Nguyệt Hoa để tiếp đón tăng chúng. Mùa xuân năm sau, ta khởi công xây dựng các điện đường, mái ngói, khoảng tám, chín mươi người ra công xây cất trong hai năm liền. Trong thời gian này, các đệ tử cùng chư thiện tín đến cúng dường được khoảng hơn hai trăm ngàn đồng. Ta giao cho chính quyền địa phương dùng vào việc cứu giúp dân nghèo. Ta không muốn giữ chút nào hết, vì dân chúng tỉnh Chiết Giang đang bị chịu cảnh thiếu ăn, đói khổ khắp nơi. Cuối năm, tỉnh Chiết Giang thành lập Hội Phật giáo Quảng Đông, đề cử ta làm chủ tịch và cư sĩ Trương Tử Khiêm làm phó chủ tịch.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi mốt (1942 – 1943), ta được một trăm lẻ ba tuổi. Trong kỳ truyền giới lần này, có vị thần cây đến cầu giới, rất là kỳ lạ. Giám viện Quán Bổn có ghi lại như sau: “Vào lúc truyền giới, có một vị hành giả đến cầu thọ giới Tỳ kheo. Khi được hỏi danh tánh là gì, người ở đâu, bao nhiêu tuổi, thầy thế độ1 là ai, có mang đủ ba bộ áo cà sa và một bình bát không, thì thầy đó trả lời rằng họ Trương, người Chiết Giang, ba mươi bốn tuổi, không có thầy thế độ, cũng không có ba y áo cà sa hay bình bát. Vì thấy thầy có lòng chân thành xin thọ giới nên Hòa thượng ban cho thầy tất cả vật dụng cần thiết để xuất gia, cùng với pháp danh là Thường Nhục. Trước khi được thọ giới, thầy làm rất nhiều công việc nặng nhọc trong chùa như quét dọn lau chùi trong ngoài tự viện. Tánh thầy trầm mặc, không nói chuyện chi với ai. Khi được cho lên đàn thọ giới thì nhất nhất đều tuân theo giới luật. Đến khi Tam đàn Đại giới 2 sắp kết thúc, tức sau đàn truyền Bồ Tát giới, thì không ai thấy thầy đâu hết, mà y áo cà sa, giới cụ vẫn còn để lại giới đường. Vài hôm sau, Hòa thượng Hư Vân mộng thấy thầy kia đến xin lại giới điệp, ngài bèn hỏi rằng thầy đi đâu sau khi lễ truyền giới chấm dứt thì thầy trả lời rằng thầy vẫn ở nơi đó chứ không đi đâu hết. Sau cùng, thầy thú nhận mình là vị thần cây cổ thụ sau chùa, hằng ngày nghe lời kinh tiếng kệ nên phát tâm muốn quy y Phật. Tuy nhiên, trong lễ truyền giới trang nghiêm, vị thần thấy có hằng hà sa số chư Phật, chư Bồ Tát, cùng các vị Hộ pháp đến chứng giám nên vị thần cây sợ, không dám vào trong chánh điện, chỉ dám đứng ở ngoài. Tỉnh dậy, Hòa thượng Hư Vân bảo tăng chúng đem giới điệp đó đến dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh chùa, nơi miếu thổ địa, mà đốt để trả lại cho thần”.
1. Thầy thế độ: vị thầy có uy tín, đạo đức, là người hướng dẫn gương mẫu, sáng suốt để người phát tâm xuất gia nương tựa để học hỏi và thực hành giáo lý lúc ban đầu.
2. Quy củ truyền thọ giới pháp chia làm ba giai đoạn: sơ đàn, nhị đàn và tam đàn. Sơ đàn truyền Sa di, Sa di ni giới; nhị đàn truyền Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới; tam đàn truyền Bồ Tát giới. Khi sơ đàn và nhị đàn đã xong, Phật tử tại gia mới được dự Tam đàn cùng với chúng xuất gia thọ Bồ Tát giới. Truyền Tam đàn Đại giới phải hội đủ Tam Sư (Đắc Giới Hòa Thượng, Yết Ma A Xà Lê, Giáo Thọ) và bảy vị tôn chứng A Xà Lê đóng vai trò chứng minh. Thông thường đàn truyền giới được cử hành trong ba ngày liên tiếp.
Trong năm đó, ta cho sửa lại am Vô Tận cho ni chúng trú ngụ. Chùa Đại Giám vừa được xây xong, nhưng công trình trùng tu chùa Nam Hoa vẫn chưa hoàn tất. Đồng thời, ta phải lo lắng những việc thế gian lẫn xuất thế gian tại Cổ Sơn, không lúc nào được rảnh rỗi. Lại thêm có máy bay Nhật cứ mãi quấy nhiễu không yên.

Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Từ lúc Nhật chiếm Quảng Châu, chính phủ Dân Quốc dời về Chiết Giang, các tướng tá cao cấp thường hay lui tới chùa Nam Hoa lễ Phật. Tình báo Nhật biết được nên cho máy bay lượn vòng quanh chùa mãi.
Hòa thượng Hư Vân biết nguy hiểm sắp đến, bảo tăng chúng cùng mọi người nên trở về phòng xá, còn ngài thì vào Tổ đường, một mình đốt hương, ngồi xếp bằng tọa thiền. Lát sau, máy bay thả bom xuống chùa, nhưng bom không nổ. Đoàn máy bay lại lượn vòng quanh chùa nhưng đột nhiên, có hai chiếc trong đoàn tự đâm vào nhau, rồi rớt xuống, cách chùa khoảng bốn mươi dặm tại vùng Mã Bá. Cả người và máy bay đều tan xác. Từ đó, máy bay Nhật không còn dám bay ngang chùa nữa.

Tháng Mười Một năm đó, Tổng thống chính phủ Dân Quốc cùng các bộ trưởng, phái hai vị cư sĩ Chuyết Ánh Quang và Trương Tử Khiêm đến chùa thỉnh ta qua Trùng Khánh, kiến lập pháp hội tiêu tai giải nạn. Ngày sáu tháng Mười Một, ta khởi hành đến Hành Ngạc, dâng hương lễ bái.
Tướng Lý Tể Thâm phái người đến tận nơi tiếp đón. Lúc ta đến Quý Châu, qua chùa Kiểm Minh, Hòa thượng Quảng Diệu thỉnh ta thượng đường khai thị. Ta đến Trùng Khánh, gặp Tổng thống họ Lâm bàn thảo việc tổ chức pháp hội tại hai chùa Từ Vân và Hoa Nam.

Tháng Giêng năm Dân Quốc thứ ba mươi hai (1943 – 1944), ta làm lễ sám, pháp hội cầu tiêu tai giải nạn, đến ngày hai mươi sáu mới chấm dứt. Tổng thống họ Lâm, tướng họ Tưởng, và các bộ trưởng v.v… lần lượt đến tham dự. Tướng Tưởng Giới Thạch vấn hỏi Phật pháp rất thâm sâu, từ luận duy vật, duy tâm đến các tôn giáo hữu thần như Thiên Chúa giáo v.v… Mọi chi tiết, ta đều trả lời bằng thư từ. Tháng Ba, ta trở về Nam Hoa sửa chữa tháp Hải Hội của bảy chúng. Khi đào đất lên thì thấy bốn cái hòm trống, không có hài cốt. Mỗi cái dài một thước sáu tấc, cùng một thẻ màu đen, hình vuông, khoảng tám tấc, trên hòm có khắc hình chim, động vật, biểu tượng thiên văn học, nhưng không ghi rõ ngày tháng. Tháng Sáu, ta khai mở học viện giới luật để giáo hóa thanh niên tăng, rồi thành lập trường tiểu học tại làng Bảo Lâm cho các con em thuộc gia đình nghèo khó trong làng. Mùa đông năm đó ta hoàn thành việc xây cất tháp Hải Hội.

 Video: Trich đoạn

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Đường Mây trên Đất Hoa 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *