Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

Chương Sáu: Vùng tiềm tàng của Tâm

THỨC MẠT NA VÀ ĐỐI TƯỢNG

Chúng ta có khuynh hướng sinh hoạt với sự giả định là cuộc sống hằng ngày của chúng ta tiến triển theo tâm ý thức của mình. Nhưng tâm ý thức nhận biết đối tượng đang xử lý công việc đời sống hằng ngày của chúng ta – nghĩa là năm thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân, cũng như ý thức – không liên tục vận hành mà không bị ngắt quãng trong 24 giờ một ngày. Chúng ta có thể ngồi và nhìn qua cửa sổ ngắm cảnh đẹp trải dài trước mắt, nhưng chỉ cần nhắm mắt lại, chúng ta có thể sống ở một nơi khác, trong trí tưởng tượng. Nhãn thức có thể dễ dàng bị đóng lại, bị cắt đứt, và mất đi.

Cũng thế, khi ngủ say, chức năng của thức thứ sáu đình chỉ. Những chức năng của tâm trên bề mặt của sáu thức bị đứt quãng, nhưng mỗi đêm chúng ta ngủ giả định là khi thức dậy, cái “tôi” như cái “tôi” bây giờ sẽ ở đó vào buổi sáng. Chúng ta không xác nhận rõ giả định này mỗi khi thức dậy, nhưng nếu nghi ngờ nhiều về sự giả định này thì chắc chắn là ta sẽ khó rơi vào giấc ngủ ban đêm.

Khi suy xét làm thế nào chúng ta lại có thể thức dậy mỗi buổi sáng chủ yếu vẫn là một người cũ, rõ ràng là cần phải có một vùng tâm thức nối kết sáu-thức-khuynhhướng-hay-bị-ngắt-quãng lại với nhau, vùng tâm thức này phục vụ như là nền tảng rộng lớn nâng đỡ sự sống con người. Vùng tâm thức chúng ta đưa ra ở đây không phải là một thứ có thể tìm kiếm và biết được một cách trực tiếp; không có sự thừa nhận một vùng tâm thức tiềm tàng như thế, chúng ta sẽ không thể giải thích được toàn bộ kinh nghiệm con người. Điều này khiến các nhà Duy Thức công nhận thức A-lại-da.

Đức Thích Ca Mâu Ni, đấng Đạo Sư Phật Giáo đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử thế giới của chúng ta, với nhãn quan sâu xa nhìn con người và thế giới tự nhiên chung quanh chúng ta và khám phá ra hai nguyên lý tối trọng yếu về sự vô thường của các pháp vô ngã của các pháp. Các pháp vô thường có nghĩa  chúng ta, và tất cả sắc tướng của thế giới tự nhiên chung quanh chúng ta thường ở trong một trạng thái sinh-dị-diệt. Không thể nào có một vật gì thường hằng, có bản chất bất biến, và đó là ngụ ý các pháp vô ngã.

Các nhà Duy Thức xem quan niệm này của Phật Giáo là nền tảng, tiếp tục khảo sát vùng căn bản tiềm tàng nhất của tâm sau này được biết đến là thức A-lại-da. Y cứ trên sự có mặt những điều kiện cần thiết trong tàng thức, những chủng tử theo nhau tạo ra hiện hành, và những hiện hành này với những dấu ấn và khuynh hướng lại tuần tự huân tập vào A-lại-da thức. Chuỗi những chủng tử gây ra hiện hành và hiện hành huân tập chủng tử hoạt động cốt tạo ra một môi trường tiến hóa tương tục.

Chúng ta làm phong phú cuộc đời mình bằng cách tích lũy những kinh nghiệm mới mỗi ngày, và tàng thức của chúng ta là một thứ tự đồng hóa mình với những dấu ấn của kinh nghiệm mới, hết dấu ấn này tới dấu ấn khác. Như thế A-lại-da thức luôn biến đổi và không có thực chất.

Tuy nhiên, trên một mặt khác, thức A-lại-da là một thứ gìn giữ một loạt những sát-na tương tự một cách tổng quát để có đặc tính bình đẳng tương tục. Các nhà Duy Thức Phật Giáo thấy rõ rằng trong vùng tâm tiềm tàng này, có một khuynh hướng mạnh mẽ về sự cụ thể hóa một bản chất không biến đổi. Chức năng của tâm khiến giải thích sai lạc rằng tàng thức là một bản chất không biến đổi chính là Mạt-na thức. Từ tiếng Phạn Mạt-na được diễn giải trong Thành Duy Thức Luận có nghĩa là liên tục thẩm xét và tư lương.

Cũng có ích cho chúng ta khi nhớ lại buổi thảo luận trước về ý nghĩa của tàng thức về mặt (1) năng tàng (2) sở tàng, và (3) chấp tàng. Nghĩa thứ ba là nghĩa của sự chấp chặt vào cái ngã xem đó là vật ám chỉ.

Điều này nói tới thức thứ tám bị thức Mạt-na chiếm dụng và bám chặt như một đối tượng. Ngược lại, thức Mạt-na xem thức A-lại-da như đối tượng của mình và bám víu vào như cái ngã tạo ra bởi một bản chất không đổi. Trong đây, ý niệm tàng thức bị chiếm đoạt tiêu biểu một cách rõ ràng mối liên quan giữa thức A-lại-da thức Mạt-na, từ đó chúng ta có thể thấy được khía cạnh bị Mạt-na níu kéo đúng là đặc tính của thức A-lại-da. Từ góc nhìn này, ý nghĩa thức bị chiếm dụng quan trọng nhất trong ba ý nghĩa. Nguyên nhân tất cả những rối rắm của chúng ta chính là nằm trong sự liên hệ giữa thức A-lại-dathức Mạt-na.

Dĩ nhiên hai nghĩa kia cũng quan trọng, nhưng thức bị chiếm dụng quan trọng đặc biệt và là căn bản cho những gì chúng ta xem như phương diện tôn giáo rõ nét của Duy Thức. Mục tiêu của Duy Thức không phải chỉ vẽ ra một cấu trúc của tâm để diễn tả một loại tâm lý học Phật Giáo. Như trường hợp của giáo lý Phật Giáo căn bản, mục đích lý thuyết Duy Thức là mang lại giải thoát khổ đau và đạt được tâm bình an. Đối với mục đích này, điều đầu tiên phải làm cho sáng tỏ là khổ đau nằm ở chỗ nào. Trong sự đòi hỏi quá ư hợp lý này, coi như là điểm chính của sự định hướng, Duy Thức cố gắng đưa ra một giải thích rõ ràng và chi tiết cấu trúc tâm, những mối liên hệ nội tại và ngoại tại đầy năng lực, cũng như những chức năng rõ nét.

TÁC NHÂN BIẾN HIỆN THỨ HAI: MẠT-NA

Chức năng của Mạt-na thức là luôn luôn nhìn về phía A-lại-gia-thức-như-là-ngã-của-mình, và bám chặt vào. Mạt-na thức có thể được giải thích như “hết-lòngvì-ngã,” vì chức năng tâm này một cách tự nhiên đưa đời sống chúng ta đến trạng thái cực kỳ vị ngã.

Ryohen (1194-1252) là một tu sĩ Pháp tướng tông vào thời Kamakura. Một đoạn trong Hai Tập Trích Tuyển Pháp Tướng của ông dẫn nhập cổ điển về Duy Thức của Nhật; ông mô tả thức Mạt-na như thế này:

Luôn luôn vận hành để làm ô nhiễm trong tận cùng tâm thức của phàm phu, ngay cả khi tiền lục thức thanh tịnh, tôi chưa bao giờ thoát khỏi sự vướng mắc vào phân biệt giữa bản ngã của tôi và các pháp. Những phần sâu xa của tâm luôn luôn bị ô nhiễm, vì lệ thuộc Mạt-na.

Tóm tắt lại những điều đã thảo luận từ trước đến giờ, chúng ta hãy bắt đầu cố gắng nhận diện những đặc điểm của Mạt-na. Đặc điểm đầu tiên là Mạt-na bao gồm một vùng tiềm tàng của tâm không trực tiếp gần gũi với ý thức. Đặc điểm thứ hai là tâm hành của Mạt-na không bao giờ bị ngắt quãng mà luôn luôn hoạt động. Thứ ba là đặt “cái tôi” ở trung tâm mọi sự kiện, khiến ta không sao có quan điểm khách quan được.

Chỉ khi nào ý thức được những khía cạnh của tâm chúng ta, chúng ta mới có thể quán chiếu về chính mình, và cố gắng hoạch định một loại tương lai thực tiễn. Loại hoạt động này thì tuyệt vời và đáng khen, vì làm cho chúng ta trưởng thành tốt trên sự trau dồi một thái độ như thế. Khi hành động như thế, chúng ta có thể nghĩ là đã làm cho mình bớt ích kỷ một chút. Không phải như thế đâu.

Tính ích kỷ và tự ái không phải là những thứ chúng ta có thể bỏ đi một cách dễ dàng, trái lại thường bám rất chặt và nằm sâu trong tầng tâm vô thức là Mạt-na. Duy Thức Học Phật Giáo, trong khi cố gắng hiểu con người qua chức năng trong những sinh hoạt hằng ngày, chỉ có thể quan sát kỹ lưỡng đến vấn đề về lòng ích kỷ của chúng ta. Và một quan niệm như thế không thể đi tới kết luận mà không có sự khám phá Mạt-na, nguồn gốc của lòng ích kỷ và chấp ngã.

Mạt-na thức luôn luôn vận hành trong tiềm thức. Đóng góp vào sự tiến bộ và thăng hoa xã hội thì hiển nhiên là điều tuyệt vời và tốt lành, và đương nhiên sẽ được xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên, trong mỗi con người đang cố gắng trau dồi thái độ và hành vi lành mạnh nếu không để ý tới hoàn cảnh, tất cả những hành động như thế bị tâm ích kỷ của chúng ta làm ô nhiễm. Những đoạn trong Hai Tập Trích Tuyển Pháp Tướng phản ảnh quan điểm này.

Ý niệm cách sống của phàm phu chưa giác ngộ là bám víu vào bản ngã – sự bám víu mọc rễ sâu xa trong sự cụ thể hóa ý niệm về ngã – đương nhiên được hiểu rộng rãi trong Phật Giáo. Tuy nhiên, đó là nhiệm vụ của các nhà Duy Thức để công nhận rằng sự bám víu này có đặt căn bản trong vùng tâm sâu kín gọi là Mạt-na thức và nói rõ ra những đặc tính. Chính tu tập đạo Phật sẽ trừ bỏ bám víu vào cái ngã.

Xin hãy lưu ý ở đây là trong những cách tu tập tiêu biểu hạnh Bồ-tát của Phật Giáo Đại thừa như lục độtứ nhiếp pháp, và  hành động bố thí luôn luôn đứng hàng đầu trong danh sách. Hành động bố thí vật cho người khác, nhất là khi không có lòng mong cầu được đền đáp có liên hệ mật thiết đến việc từ bỏ ngã chấp. Bố thí, đặc biệt trong nghĩa này của Phật giáo, đòi hỏi việc tặng người khác vật sở hữu của mình một cách vô điều kiện – không trông chờ đền đáp hay không hối tiếc về sau. Tiếp tục sống với thái độ đầy chấp ngã tới mức độ nào đó thì chúng ta không thể tặng đồ vật của mình cho người khác một cách dễ dàng và không điều kiện.

Về việc tu tập hạnh bố thí, ngay từ thời kỳ đầu của Phật giáo, đã có giáo lý gọi là tam luân không tịch. Tam luân là người cho, người nhận, và quà tặng. Khi cả ba được thi hành một cách trọn vẹn mà không có một chút nào phải cố gắng nội tâm thì đó được coi là một hành động bố thí toàn hảo – một hình thức bố thí không điều kiện trong đó người ta không mong đợi dù chỉ một lời

cám ơn. Có thể gọi đó là “cho và xả.”

Mặt khác, bố thí có điều kiện thì gọi là tam luân ô nhiễm. Ở đây, lòng ích kỷ không những không được buông xả, mà định kiến về cái ngã là tầm quan trọng và chú ý tức thì. Khi chúng ta bắt đầu hành hạnh bố thí, tất cả những phẩm vật của ta đều bị đặc tính này làm vẩn đục, vì hành hạnh bố thí luôn luôn trói buộc với vật bố thí, và vì cái ngã như là trung tâm của sự nhận biết của chúng ta, khiến cho việc thực hành bố thí không vướng mắc theo tam luân không tịch trở nên vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, chính vì điều đó mà việc thực hành hạnh bố thí đích thị được coi một pháp tu quan trọng trong Phật giáo.

Nếu nghĩ đến vấn đề bố thí này và ghi nhớ trong tâm là Mạt-na thức chìm đắm một cách bí mật và sâu dầy vào ngã chấp trong tiềm thức, chúng ta không thể nào nhận biết là đã bố thí một vật xong, bất chấp hoàn cảnh, nhưng chỉ vì thuận lợi cho chúng ta mà thôi.

Rất dễ dàng để thấy lòng ích kỷ không thể mang lại ảnh hưởng lớn trên những đối tượng chúng ta thấy, nghe, và suy nghĩ. Trước đây chúng ta đã biết trong buổi thảo luận về A-lại-da thức như tác nhân biến hiện thứ nhất nghĩa là đối tượng nhận thức được biến hiện trước tiên vì thích hợp với tổng thể kinh nghiệm riêng của chúng ta. Giờ đây, trước hết, chúng ta gán cho đối tượng nhận thức của chúng ta ý nghĩa lớn hơn theo lòng ích kỷ phát xuất từ Mạt-na thức.

Chúng ta hướng cuộc đời mình trong một môi trường bị thức A-lại-da thay đổi một cách chủ quan, và bây giờ, phụ thêm, bị Mạt-na cũng thay đổi một cách chủ quan. Đây gọi là tác nhân biến hiện thứ hai.

Chúng ta sống trong cuộc đời căn cứ trên sự giả định vật được nhận thức, và diễn giải một cách thận trọng đối tượng với độ chính xác vừa phải. Bởi vì đương nhiên chúng ta cho rằng mình thấy rõ tối đa đối tượng nhận thức, không nghĩ rằng mình đã vo tròn bóp méo đối tượng trước mắt để phù hợp tiện lợi của mình.

Chúng ta thay thế vật đã bị A-lại-daMạt-na tác động và biến thể làm đối tượng nhận thức. Mọi vật đã bị méo mó và định nghĩa để hỗ trợ tiện lợi cho chúng ta, và như thế, đối tượng nhận thức thực ra là vật ám chỉ đã bị tâm thức biến hiện một cách chủ quan. Vật chúng ta nhận thức chắc chắn không phải “ngoại vật” trong nghĩa thường được hiểu về từ này. Một số người tin rằng chúng ta đang sống đời mình căn cứ trên sự hiểu biết đích xác cách sống chân chính cần phải bắt đầu buông bỏ tính kiêu mạn này và hãy bắt đầu nghĩ lại việc này một chút. Thực hiện được điều này sẽ tạo bước ngoặt có tính chất quyết định trong giáo lý Duy Thức.

BỐN PHIỀN NÃO CỦA MẠT-NA

Trong khi A-lại-da thức tích lũy tất cả hành động và thái độ chúng ta với đặc tính tương tục bình đẳng hoặc biến đổi mà bất biến, Mạt-na hiểu sai A-lại-da thức là bất biến, một thực thể mệnh danh là ngã và bám chặt.

Sự huân tập dấu ấn mỗi một hành động của chúng ta vào A-lại-da thức xảy ra rất tế nhị, ẩn dưới ngưỡng cửa của tâm thức. Đồng thời, việc Mạt-na bám dính A-lại-da thức không thể trực tiếp nhận biết. Do đó loại trừ ngã chấp của Mạt-na, ích kỷ nội tâm và vị ngã nằm trong “cái tôi,” không thể đơn giản chỉ trong ý muốn quyết định là được.

Nằm trong “cái tôi” ý thức thường phản chiếu một cách kiên quyết lên lòng vị ngã trong lời nói và thái độ, còn có một “cái tôi” vi tế hơn chìm sâu trong tính ích kỷ. Từ đó, chúng ta hãy xem xét tâm hành thực sự của Mạtna bao gồm gốc rễ của ích kỷ và vị ngã.

Duy Thức Học Phật giáo bảo rằng chúng ta có tổng cộng 51 tâm sở, chia ra làm 6 nhóm: biến hành, biệt cảnh, thiện, phiền não, tùy phiền não, và bất định. Sáu nhóm này đã được giới thiệu trên kia trong chương 3, theo Bách Pháp Minh Môn Luận của ngài Thế Thân.

Trong số những tâm sở này, tất cả, trừ những tâm sở biến hành, được tập trung trong Mạt-na thức như là tâm sở phiền nãotâm sở tùy phiền não. Những tâm sở này cùng có chung đặc tính mang lại phiền muộn và khổ đau cho chúng ta.

Tâm sở phiền não chính gồm những tâm sở căn bản, hay những giao động của tâm, tiêu biểu cho những chức năng căn bản về tâm lý làm cho tâm và thân của chúng ta khổ đau cùng cực. Trong nhóm này có 6 tâm sở: tham, sân, mạn, si, nghi, và ác kiến. Trong những tâm sở này, tham, mạn, si, và ác kiến là những chức năng của Mạt-na thức.

Bách Pháp Minh Môn Luận do Thế Thân viết vào thời điểm khi suy tư của ngài về Duy Thức đã chín muồi, nhưng có một tác phẩm khác ra đời sớm hơn của Thế Thân đã có ảnh hưởng hơn là Trimsika (Trung Hoa dịch là “Duy Thức Tam Thập Tụng”). Trong sách này, bốn tâm sở phiền não liên hệ với thức Mạt-nangã si, ngã kiến, ngã mạn, và ngã ái.

Nếu so sánh hai bản văn, tuy thứ tự của những mục thì khác nhau, chúng ta thấy là sự hiểu biết về tâm hành thì giống nhau. Tuy nhiên, một đoạn trong Duy Thức Tam Thập Tụng xác định rằng Mạt-na thức luôn luôn vận hành theo bốn phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái; và đã lặp đi lặp lại từ hồi đầu trong lịch sử nghiên cứu Duy Thức học. Như vậy xử dụng một đoạn trong Duy Thức Tam Thập Tụng như nguồn gốc chính cho cuộc thảo luận của chúng ta về những phiền não này. Nếu hiểu đúng là bốn phiền não liên hệ đến Mạt-na thức trong Duy Thức Tam Thập Tụng, ngã si, ngã kiến, ngã mạn,ngã ái, có thể được xem tương tự như vô minh, ác kiến, mạntham ái theo thứ tự của Bách Pháp Minh Môn Luận.

Tâm hành của ngã si, đồng nghĩa với vô minh hay si là thực tại bị mờ tối, và ám chỉ một trạng thái loạn tưởng. Vì là chức năng tâm lý vận hành như nguyên nhân của phiền não, ngã si được coi là tâm sở đầu tiên, căn bản, và sai lạc nhất. Đây là nguyên nhân chính của sự rối rắm mà chúng ta gặp trong đời sống hằng ngày.

Ngoài chức năng trong Mạt-na thức, ngã si còn hoạt động trong toàn bộ tiền ngũ thứcthức thứ sáu, ý thức. Mặc dù tên đơn giản là vô minh, phạm vi thật sự của chức năng ngã si thì có nhiều loại khác nhau và bất định. Trong vai trò là một tâm sở chức năng tâm lý của Mạt-na thức, những đặc tính nổi bật của ngã si là việc dấy khởi đồng thời với ngã kiến, ngã mạn, và ngã ái, cũng như việc nó tiếp tục vận hành từ quá khứ vô thủy không bị ngắt quãng. Điều này chứng tỏ là ảo tưởng đối với vấn đề vô ngã, tương ứng với ngã kiến (sẽ được thảo luận sau), và được gọi một cách chính xác là ngã si.

Mục ác kiến được chia thành năm tiểu mục như sau:

  • thân kiến
  • biên kiến
  • tà kiến
  • kiến thủ kiến 5- giới cấm thủ kiến.

Ngã kiến tương ưng với thân kiến, và ám chỉ hiểu sai lạc về “ngã”: ngã được thành lập như một tập hợp nhiều yếu tố khác nhau hành động như một chủ thể không thay đổi. Ngã kiến nghĩa là mình thấy cái ngã là thực ngã, trong khi sự thật là vô thường và không có một chủ thể cố hữu. Chúng ta tiếp tục hoạt động ngay trong nhiều kiến chấp lầm lẫn đa dạng mà tất cả đều cắm rễ trong ngã kiến.

Để hiểu ác kiến một cách đúng đắn, chúng ta cần nhớ lại tâm sở tuệ được liệt kê trong nhóm những tâm sở biến hành đã giới thiệu trong chương ba, “Chức Năng Của Tâm”. Tuệ là một tâm hành làm công việc lựa chọn, phân biệt, và xác định đối tượng nhận thức. Tâm sở này vận hành không những theo đường lối thiện, mà còn theo lối bất thiện và bất định. Khi tâm sở tuệ vận hành bất thiện, bằng cách nắm giữ sự vật một cách lệch lạc thì đó là ác kiến.

Ác kiến vận hành trong phạm vi của cả ý thứcMạt-na thức. Trên đây khi chúng ta chia ác kiến ra thành năm nhóm, chúng ta xác định là thân kiến thì hơi tương tự như ngã kiến trong bốn phiền não. Nói một cách chính xác hơn, trong thân kiến có một khía cạnh cố hữu lúc nào cũng hoạt động, không bị ngắt quãng, và đó là ngã kiến của Mạt-na thức. Tất cả những chức năng xảy ra trong phạm vi thân kiến phải chịu sự ngắt quãng (cũng như biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến) không những là chức năng của Mạt-na thức mà còn là chức năng về tâm lý của thức thứ sáu, ý thức. Biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và vô số những giới cấm thủ kiến, tất cả đều không biết đến luật nhân quả, và có liên quan đến việc hiểu sai lạc và có khuynh hướng làm tổn hại những giáo lý không phải Phật Giáo.

Ngoại trừ biên kiến, những kiến chấp kia không phải là bẩm sinh, nhưng là kết quả của môi trường văn hóa từ lúc mới sinh ra. Cái bẩm sinh, chức năng tiềm tàng của tâm nhận biết đặc tính của tàng thức là tương tục bình đẳng nhưng cho đó là chủ thể bất biến – như vậy qui về một cái ngã thực – chính là ngã kiến trong bốn phiền não.

Ngã mạn là một tâm hành khiến ta thấy rất hãnh diện về mình và coi thường người khác. Thông thường từ mạn ám chỉ tâm sở vận hành y cứ trên sự so sánh giữa mình và người khác, từ đó giá trị của mình được thổi phồng lên để sinh ra lòng tự cao.

Ngã mạn được phân ra 7 loại biểu hiện khác nhau, gọi là thất mạn.

  • Mạn
  • quá mạn cho rằng mình giỏi hơn người bằng mình và giỏi bằng người hơn mình
  • mạn quá mạn cho rằng mình hơn những người hơn mình
  • ngã mạn
  • tăng thượng mạn (chưa chứng đắc Thánh đạo mà cho là mình đã chứng đắc)
  • ti mạn cho rằng mình chỉ hơi kém hơn những người tài giỏi hơn mình rất nhiều
  • tà mạn cho rằng mình có đạo đức, như là tuệ giác và giác ngộ, trong khi mình thực sự không có.

Bảy loại mạn nói tới những chức năng về tâm lý phát sinh trong quá trình so sánh giữa mình và người, đã thúc đẩy sự nuôi dưỡng lòng tự cao hơn lên. Một thí dụ thú vị được thấy trong ti mạn – cho rằng mình chỉ “hơi” thua kém những người hơn mình nhiều một chút thôi. Đây là loại ngã mạn nuôi dưỡng sự ngu xuẩn khi chúng ta gặp một người trội hơn mình về mọi phương diện. Chúng ta có thể cho rằng trong trường hợp này không có bất cứ một hình thái ngã mạn nào dấy lên ở đây, vì không có sự lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận là người kia tuyệt vời. Nhưng ngay chỉ một sự điều chỉnh nhỏ về sự chấp nhận, như là “tôi có thể không giỏi bằng ông ấy, nhưng tôi chắc chắn là tôi suy nghĩ đúng,” khiến chúng ta thấy mình hợp lý khi nghĩ là người kia chỉ giỏi hơn chúng ta một chút xíu thôi.

Trong trường hợp này, tiếc thay, chúng ta không thể nào có được một cảm giác dễ chịu thấy mình hơn người, và vì thế thay vào đó chúng ta cố gắng giảm tới mức tối thiểu cảm giác yếu kém chúng ta có thể cảm thấy. Mạn trong việc xem mình chỉ thua kém một chút những người hơn mình rất nhiều thì rõ ràng là không phải một hình thức của mạn, mà chứng tỏ mặt vi tế khó tin trong chức năng căn bản của mạn.

Người ta hiểu ngã mạn là một tâm hành hoạt động cả trong thức thứ sáuthức thứ bảy. Ngã mạn vận hành trong phạm vi của ý thức có thể được nhận thấy khi tự quán chiếu, và như thế được đè xuống. Tuy nhiên, những hình thái ngã mạn hoạt động trong Mạt-na thức vận hành trong vùng tâm tiềm thức, dù quán chiếu sốt sắng đến đâu, cũng không thể nào tới gần để gây ảnh hưởng hay điều khiển được.

Tin là mình biết thấu đáo những việc mà thật sự mình chẳng biết gì thì gọi là tăng thượng mạn. Suy ngẫm kỹ về khiếm khuyết này, chúng ta có thể kinh nghiệm được một bước tiến phi thường trong sự tiến bộ về tâm linh của chúng ta và phát triển đời sống của chúng ta từ nay trở đi. Tuy nhiên, Duy thức Phật Giáo cho là bên dưới sự vận hành của bề mặt ý thức, có một tâm hành mạn tương tục, bí mật dựa vào cái ngã hư giả để tạo ra một cảm giác khinh thị người khác. Đây không phải điều gì khác hơn là tâm hành mạn tìm thấy trong Mạt-na thức.

Ái ngã cũng được gọi là ngã tham, tham ái, hay ham mê. Tham ái là một tâm sở cuốn hút chúng ta về đối tượng nào thấy hấp dẫn. Tham ái, cùng với sân si, là một trong ba độc. Tham áitâm sở nổi tiếng, một trong những tâm sở căn bản vận hành để lôi kéo chúng ta ngày càng xa rời tâm Phật. Duy Thức Học Phật Giáo hiểu tâm sở tham ái vận hành rộng rãi, thấy được trong tiền ngũ thức, ý thức, và Mạt-na thức.

Trong phạm vi ngã ái, Mạt-na thức hiểu lầm cho A-lại-da thức là cái ngã thực và bám chặt vào đó, đến nỗi cuối cùng chúng ta nhận biết được sự bám víu đó. Có thể tăng trưởng sự tỉnh giác này bằng cách quán chiếu lời nói và hành động của chúng ta.

Trong trường hợp tham ái, chỉ có thể được nhận diện khi vận hành ở mức độ ngoại vi của ý thức. Cùng lúc đó, ngã ái của Mạt-na thức thì vẫn đang cựa quậy ở dưới bề mặt của ý thức.

TÁM TÙY PHIỀN NÃO CỦA MẠT-NA THỨC

Như chúng ta đã thấy ở phần trên của chương trước, Mạt-na thức hiểu lầm sự tương tục kiểu A-lại-da thức thâm sâu và cho đó là cái ngã thật, và rồi không dứt bám vào đó. Mạt-nabốn phiền não chính tiêu biểu là những tâm sở ngã si, ngã kiến, ngã mạn ngã ái luôn luôn đi kèm.

Khi hai phiền não cuối là sânnghi thêm vào bốn phiền não trên, chúng ta có nguyên bộ sáu phiền não chính, đó là những rối loạn căn bản của tâm và là nguồn đưa đến mọi thứ loạn động.

Y cứ trên những căn bản phiền não này, một loạt phiền não dẫn xuất từ đó, người ta biết đó là 20 tùy phiền não được kích động. Trong số này có 8 chức năng thuộc về tâm lý có liên quan tới Mạt-na thức. Đó là bất tín, giải đãi, phóng dật (buông lung), hôn trầm, trạo cử, thất niệm, bất chánh tri,tán loạn. Khi phiền não trong tâm khởi lên, tất cả 8 tâm sở này theo nhau xuất hiện. Tâm bị ô nhiễm làm ta bất an, và kết quả là khoảng cách giữa chúng ta và tâm Phật chắn chắn càng ngày càng lớn.

Chúng ta hãy nhìn sơ qua 8 tâm sở trong số những tâm sở tùy phiền não. Bất tín là một từ định nghĩa sự thiếu khuynh hướng quan tâm đến những pháp thiện, không sống hết mình với pháp thiện, và không mong đợi kết quả chắc chắn từ pháp thiện. Những pháp thiện là những tâm hành tâm linh tích cực, và hành động bất tín làm ô nhiễm tâm chúng ta.

Tín là một ý niệm Phật Giáo căn bản bao hàm khả năng chúng ta có để tịnh hoá tâm và khiến chúng ta tiến tới gần mục tiêu là Phật quả. Vì bất tíntâm hành làm đứt quãng sự thành lập lòng tin trong chúng ta, sẽ làm ô nhiễm tâm và ngăn cản con đường tâm linh của chúng ta. Bất tín hầu như trực tiếp gây ra tâm sở giải đãi, thiếu mất động cơ trau dồi thiện pháp. Đây là một chức năng tâm lý kiềm chế động cơ hướng về đường thiện, điều này làm cho Ryohen viết như sau: “Những người thiếu tín tâm thì giải đãi, những người giải đãi thì không có tín tâm.”

Tu tập Phật Giáo thường được tóm gọn dưới đề mục “từ bỏ điều xấu, trau dồi điều thiện.” Điều này ám chỉ sự từ bỏ những rối loạn của tâm và duy trì năng lực để tiến tới Phật quả. Chúng ta chỉ cần đơn giản vạch một đường rõ ràng giữa việc sẽ làm và sẽ không làm. Nếu không, chúng ta không thể thiết lập được một nguyên tắc sống sáng tỏ nào. Sống một cuộc đời không có phép tắc qui củ, chỉ buông lung theo dục vọng để bị dẫn đi đâu thì theo đó, sẽ đưa tới một cuộc đời phóng dật. Việc này còn dẫn đi xa hơn tới chỗ làm nhiễm ô tâm nhiều hơn, và những tâm sở thiện trước đây có thể đã đồng hóa với “cái tôi” bị suy đồi.

Hôn trầm là trạng thái tâm lý trong đó tâm chìm xuống, ngăn cản không cho nhận định và phán đoán sự vật và các sự kiện một cách đúng đắn. Bản sao của tình trạng này là tâm sở trạo cử, tình trạng tâm lên xuống, nổi trôi bất thường. Triệu chứng chính của tâm sở này là không thể xác định sâu và kỹ đặc tính các sự vật.

Thất niệm đối nghịch với chánh niệm của những tâm sở biệt cảnh. Nếu mất sự chú ý ta cũng mất luôn đối tượng nhận thức, không thể nào đánh giá một cách thỏa đáng, hay quán chiếu được. Kết quả là tâm trở nên tán loạn. Thất niệm được coi là yếu tố chính góp phần vào tâm sở tán loạn.

Tán loạn vận hành ngược với tâm sở niệm. Thay vì chú tâm vào một đối tượng duy nhất, sự chú ý của ta nhảy đi, di chuyển, và lang thang từ đối tượng này sang đối tượng khác, hết cái nọ tới cái kia. Kết quả là ta có khuynh hướng phát triển cái nhìn không thăng bằng và sai lệch. Thoạt nhìn tán loạntrạo cử có thể cùng một trạng thái. Nhưng trong khi tâm tán loạn nhảy từ đối tượng này sang đối tượng kia thì tâm trạo cử có khuynh hướng tiếp xúc một đối tượng duy nhất kỳ cục, đưa tới rối rắm.

Nhóm cuối cùng, bất chánh tri là tâm sở hiểu biết sai lạc mọi đối tượng có thể hiểu được.

Vì chức năng của Mạt-na thức sâu kín, vi tế, và không thể hiểu trực tiếp được, bốn phiền não căn bản cũng tương tự như thế. Vì thế, giải thích các tâm sở đi kèm với Mạt-na thức thường nằm trong khung cảnh thảo luận về ý thức. Tuy rằng chúng ta đã giải thích những tâm sở này như những chức năng có thể nhận diện rõ ràng, thật sự thì khó diễn tả, đơn giản là vì những tâm sở này là chức năng tâm lý mơ hồ, lộn xộn.

TÓM TẮT

Chúng ta biết rằng Đức Phật chưa bao giờ mỏi mệt trong việc đào sâu chứng ngộ về các pháp vô thường và chỉ dạy cho chúng sinh về các pháp vô ngã. Người học và tu Phật trong những thế hệ sau có thể đã giải thích đúng năng lực của Đức Phật xuất phát từ ý muốn truyền đạt chân lý cho hậu thế sống sau ngài quá xa, cả về không gian lẫn thời gian. Nhưng đây chỉ là sự giải thích của riêng chúng ta, trong góc nhìn của chúng ta.

Động lực đích thực của Ngài chỉ là những ý niệm như vô thường, vô ngã quá khó không thể hiểu được đối với những người sống trong trạng thái hỗn độn quá sâu dầy. Như vậy chắc chắn là để giải quyết khó khăn này, Đức Thích Ca Mâu Ni cần phải giải thích nhiều lần những tư tưởng có ảnh hưởng sâu xa này.

Con người và thế giới tự nhiên chung quanh ở trong trạng thái chuyển động và thay đổi, và các pháp hiện hữu ở đây và bây giờ chỉ là sự kết hợp tạm thời những yếu tố khác nhau. Không có thứ gì là thường hằng và có thực chất, và điều này là ý nghĩa của các pháp vô thường và vô ngã. Những chân lý này trình bày cho chúng ta thấy với hy vọng chúng ta ít nhất cũng có thể thử cho phép sự kiện này biến thành sự thật.

Đồng thời, ngay cả khi nói về vô thường, chúng ta chỉ trực tiếp cảm nhận được có một điều gì về “cái tôi” của ngày hôm nay và “cái tôi” của vài tháng trước đây vẫn còn y nguyên, hầu như không thay đổi qua thời gian và lớn lên. Bị hấp dẫn bởi khía cạnh thường hằng này, chúng ta hiểu đó là một cái gì có thực chất liên hệ đến cái ngã, và chúng ta tiếp tục bám víu khía cạnh có thực chất, thường hằng này suốt cuộc đời chúng ta, xem như chính mình hiện hữu.

Quan tâm tới cơ cấu bám víu vào cái ngã giả tưởng, Duy Thức Học Phật Giáo tạo ra một vùng tâm tiềm ẩn đầy đủ chi tiết về việc bám víu vào cái ngã gọi là Mạt-na thức, thức này lấy A-lại-da thức làm đối tượng. Vì sự bám víu vào một cái ngã giả tưởng do sự kiện A-lại-da thức tích lũy những dấu ấn của hành động và tạo ra một ý niệm tương tục theo kiểu từ quá khứ tới tương lai, đã bị Mạt-na thức hiểu sai, cho đó là một cái ngã thường hằng, có thực chất.

Eishun, vì muốn diễn tả sự vô thường và vô ngã của con người từ đó sinh ra, đã sáng tác bài thơ sau đây: “Già và trẻ tất cả mọi người đều biết rằng họ sẽ phải chết, và nói như thể là họ thực sự biết điều đó. Nhưng ngay cả khi họ nói thế, họ cũng chẳng thực sự biết những gì sẽ xảy ra.”

Vì bám víu chặt chẽ vào cái ngã, chúng ta mất tỉnh giác về chân tánh hiện hữu nơi chúng ta. Điều này thật đau lòng. Tôi có thể nghe được tiếng thở dài não nuột của Eishun.

Mạt-na thức là tâm hoàn toàn bị lợi ích cá nhân ám ảnh, và vì mình có tâm này ở nơi thâm sâu chính mình, chúng ta, từng phút giây hằng ngày, không thể tránh khỏi tập trung vào chính mình. Trong mọi hoàn cảnh xảy đến, chúng ta xoay sở đầu này đầu kia để lo cho bản thân, cho quyền lợi riêng mình.

Những tâm sở phiền não chính và phụ có mặt trong Mạt-na thức, như đã thấy ở trên, không những có liên quan đến thức Mạt-na, mà còn liên quan tới ý thức, hay tùy theo hoàn cảnh, cả trong phạm vi tiền ngũ thức.

Chức năng tâm lý của những tâm sở phiền não chính và phụ vận hành ở mức độ của ý thức cho phép chúng ta tỉnh giác, và vì vậy khi quán chiếu sâu và kỹ, chúng ta có thể đè nén tới một mức độ nào đó, nhưng bất lực đối với bốn phiền não của Mạt-na thức. Bốn phiền não này hằng chuyển trong chức năng tiềm ẩn vi tế, có nghĩa là những nỗ lực của chúng ta khi quán chiếu có ý thức chỉ có thể xảy ra rời rạc, ở trên bề mặt một nền tảng hoàn toàn bị tràn ngập bởi lòng ích kỷ.

Dĩ nhiên, khi cố gắng tiến về hướng tích cực ở mức độ có ý thức, chúng ta có thể mang lại cho đời mình ý nghĩa lớn lao. Tuy nhiên, trong tầng sâu của bản ngã, có bốn phiền não không thực sự nằm yên tránh bám víu vào cái ngã giả tưởng, giống như Ryohen đã nói:

Luôn luôn vận hành để làm ô nhiễm trong tận cùng tâm của phàm phu, ngay cả khi tiền lục thức thanh tịnh, tôi chưa bao thoát khỏi sự ràng buộc vào việc phân biệt giữa tôi và các sự vật. Tầng tâm thâm sâu luôn bị ô nhiễm.

Đây là lý do tại sao nỗ lực của chúng ta trau dồi hành vi thiện không thể có kết quả rõ ràng và tức thì.

Tâm sâu thẳm đó thấm đẫm lòng ích kỷ lôi kéo những đối tượng cho là tốt và thích hợp theo khuynh hướng của nó, và dồn hết sự chú ý vào những đối tượng này xem như những đối tượng nhận thức.như thế những đối tượng không xuất hiện trước chúng ta như thực sự đang là, mà xuất hiện trong một trạng thái bị biến hiện bởi lòng ích kỷ do Mạt-na thức lèo lái.

 Video: Trích đoạn

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *