Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Chương Bốn: Tích Lũy Kinh Nghiệm Trong Vùng Tiềm Tàng Của Tâm
TÁC NHÂN BIẾN HIỆN THỨ NHẤT: A-LẠI-DA THỨC
Sau khi phân tích tâm kỹ càng, các nhà Duy Thức chắc chắn rằng tâm gồm có tám tầng lớp thành lập bởi tiền ngũ thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân điều khiển năm giác quan, cùng với thức suy nghĩ hay ý thức, Mạtna, và tàng thức. Các nhà Duy Thức thừa nhận rằng tám tâm vương này có khả năng biến hiện một cách chủ quan mọi thứ chung quanh chúng ta tiến hành qua ba giai đoạn gọi là ba sự biến hiện chủ quan.
Trong ba sự biến hiện đó, phần quan trọng nhất là sự biến hiện đầu tiên, thức thứ tám, A-lại-da thức. Trong chương này, trước hết chúng ta hãy nhìn A-lại-da thức trong vai trò như chủ thể biến đổi đối tượng nhận thức. Alaya là tiếng Sanskrit có thể dịch là nhà kho, và alaya-vijnana thường dịch sang tiếng Anh như “store consciousness” – tàng thức – hàm ý tích chứa và giữ gìn tin tức. Thực ra cái gì được cất giữ trong tàng thức? Để tránh phải trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tra cứu xem vùng nào của tâm thức nên xem là trung tâm thực sự của tám thức tâm vương.
Nhìn những kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày, chúng ta có thể xem thức thứ sáu, thức suy nghĩ hay ý thức (mano-vijnana) như là trung tâm của tâm. Chúng ta sống cuộc đời hằng ngày của mình qua những vận hành khác nhau chi phối bởi thức suy nghĩ. Tuy nhiên, như đã nêu lên, thức thứ sáu khó tránh khỏi gián đoạn – không hoạt động liên tục. Thí dụ như khi chúng ta ngất xỉu hay ngủ say, thức suy nghĩ ngưng hoạt động. Ta có thể bàn cãi là trường hợp ngất xỉu thì khó hiểu vì trong thực tế trường hợp này hiếm khi xảy ra, nhưng ngủ say là trường hợp xảy ra hằng đêm cho tất cả mọi người.
Chúng ta hiểu là dù cho có vẻ như hoạt động liên tục, thật ra thức suy nghĩ thường bị gián đoạn và chỉ tồn tại như những mảnh rời rạc. Nếu không có một cơ cấu tâm ráp những mảnh đó lại với nhau, chúng ta không thể nào hiện hữu như những con người hợp nhất. Thức A-lại-da cần thiết để “dự phòng” cho một đời sống tỉnh thức. Những hành động và thái độ của chúng ta có liên quan trực tiếp đến sự tương tác với người khác. Hành động xong, chúng ta có thể chắc chắn rằng có sự đánh giá theo một cách nào đó, và chúng ta cũng có thể chắc chắn là những tác động dội lại từ những hành động đó sẽ in dấu trong nếp sống xã hội tới một mức nào đó dù được gán cho là “thành tựu tuyệt vời” hay “tội ác.” Rõ ràng trong cả hai trường hợp chúng ta đều bị sự đánh giá của xã hội chi phối và đóng dấu; chỉ có sự đánh giá này khi hành động của chúng ta được nhìn qua con mắt của người khác.
Vậy điều gì xảy ra khi những hành động tiêu cực của chúng ta không ai biết đến? Vì không ai theo dõi nên thủ phạm của những việc làm xấu ác cho rằng hắn sẽ không bị xã hội phán đoán. Sau đó hắn sẽ nghe người ta nói những câu như “có những tên bất lương đang quanh quẩn đâu đây, phải không?” Đóng vai khờ khạo, sau lưng mọi người hắn chế nhạo họ, và thế là hết chuyện. Trên bình diện xã hội, vụ này đã xong. Nhưng cuối cùng điều gì sẽ xảy ra trong tâm một người như thế?
Trong ba nghiệp thức của thân, khẩu và ý, chỉ có những ý nghĩ là không liên hệ với hai nghiệp kia vì xảy ra trong tâm chúng ta như là ý nghiệp. Tuy nhiên, như đã được giải thích ở trên trong phần thảo luận về tâm hành tư, trong đạo Phật, ngay cả những ý nghĩ xảy ra trong tâm chúng ta cũng được hiểu là có một chức năng kỳ diệu.
Điểm này nhà Duy thức đặt câu hỏi cái gì đích thực là bản chất của điều gọi là những hành động của chúng ta. Câu kết luận là những sự sắp xếp mỗi hành động cuối cùng để lại dấu ấn trong A-lại-da thức, nơi đó hậu quả những hành động chúng ta được lưu giữ.
Tuy rằng chúng ta cẩn thận khi biết có người canh chừng chúng ta, chúng ta cũng đừng nên quên rằng mình cũng còn bị canh chừng bởi chư thần thánh.
Đây là những lời dạy của bậc thầy Duy thức nổi tiếng Nhật Bản vào thời Kamakura, Gedatsu Shonin (Jòkei;1155-1213), từ quyển Đánh Thức Tâm Khỏi Si Mê. Chúng ta thường tự động cẩn thận trong hành vi và lời nói – đối tượng cho người khác đánh giá – khi có mặt người khác, nhưng chúng ta lại ít cẩn thận khi nghĩ rằng không có ai dòm ngó mình, hay đối với những điều mình dấu kín trong tâm. Thế giới tư tưởng của chúng ta không ai biết đến có một khuynh hướng rất đáng ngạc nhiên là dễ rơi vào sự phóng túng. Tuy nhiên, Gedatsu Shonin nói với chúng ta rằng nơi đó chư thiên và chư Phật thấy hoàn toàn rõ ràng, có nghĩa tất cả những hành động tiêu cực của chúng ta không bao giờ không bị chứng kiến.
Trong thế giới tư tưởng của chúng ta, nơi chúng ta cảm thấy thoải mái một cách kín đáo, thật ra lại rất bừa bộn. Theo các nhà Duy thức, mọi thứ xảy ra bây giờ trở thành một gánh nặng chúng ta phải mang theo đến kiếp sau. A-lại-da thức giữ lại tất cả những kỷ niệm của chúng ta cho tới bây giờ, và tất cả những khuynh hướng hành động và thái độ đã âm thầm tích lũy trong nền tảng của tâm chúng ta, để rồi hiện hành trở lại và dĩ nhiên bộc lộ từ chính mình. Nhà Duy thức xem đó là lớp nền căn bản nhất của tâm.
Cách trình bày máy móc những khuynh hướng kinh nghiệm quá khứ trong sự nhận thức của chúng ta thì được gọi là sự biến hiện chủ thể thứ nhất. Thức A-lại-da cất giữ dấu vết những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta trước hết hành động để biến hiện những đối tượng nhận thức. Chúng ta hoàn toàn không làm chủ được những gì biểu lộ. Chúng ta không thể làm gì khác hơn là lấy sự biến hiện chủ thể này làm đối tượng nhận thức, và biến hiện này là sự phản chiếu toàn thể quá khứ chúng ta, quá khứ này không gì khác hơn là chính chúng ta. Khi thảo luận về tàng thức như sự biến hiện chủ thể thứ nhất, chúng ta đang nói về điều căn bản và hơi đáng sợ này.
Khi tìm hiểu sâu về những mặt của tạng thức tới ngọn ngành, chúng ta không thể làm gì khác hơn là cuối cùng đi tới một kết luận rằng từ giờ trở đi phải vạch một đường đi cho cuộc đời mình theo hướng tích cực nào đó. Duy Thức Học Phật Giáo đòi hỏi chúng ta tìm đường đi cho đời sống chúng ta căn cứ trên sự nhận thức và tỉnh giác như thế. Bằng cách thừa nhận A-lại-da thức, hiện hữu , Duy Thức Học Phật Giáo nhấn mạnh rằng một đời sống với thái độ thiếu chánh niệm không thể chấp nhận được.
HUÂN TẬP CHỦNG TỬ
Hãy xét đến trường hợp một tiểu thuyết gia nổi tiếng giải bày những ý nghĩ cá nhân của ông bằng cách lấy đời sống chính mình làm nhân vật chính. Điều này không nhất thiết có nghĩa là ông đã phơi bày tất cả mọi thứ cho mọi người biết về ông. Không ai mà không có một điều gì đó muốn giữ kín không cho ai biết. Đồng thời chúng ta có thể cho rằng vì những hành động của chúng ta được mọi người biết đến nên vụ đó đã được đóng lại trên mặt nghiệp. Thật ra, tuy đã được đóng lại trên bình diện xã hội và sự tương tác giữa con người với nhau, những chi tiết của hành động tiêu cực không biến mất và dấu ấn vẫn còn lưu giữ lâu dài.
Sau đây chúng ta hãy xem bằng cách nào và dưới dạng nào những hành động và thái độ của chúng ta có thể được lưu giữ và chất chứa trong phần sâu thẳm của A-lại-da thức. Duy Thức giải thích rằng “hành động hiện hành huân tập chủng tử trong A-lại-da thức.” “Hành động hiện hành” có thể được hiểu như những hành động cụ thể, và những hành động cụ thể và thái độ này cuối cùng được “huân” vào tàng thức dưới dạng những “hạt giống” hay chủng tử.
“Huân tập chủng tử” có nghĩa giống như khi một mùi thơm được truyền ngấm vào quần áo, hành động của một người tạo nên những dấu ấn và những khuynh hướng được gieo trồng vào vùng sâu nhất trong tâm người đó, và được lưu giữ ở đó. Những dấu ấn này thẩm thấu vào tàng thức, và khi được trồng xuống gọi là chủng tử vì có năng lực tạo ra hình tướng cho bản thân sau này. Những chủng tử này, đã được âm thầm huân vào và lưu giữ trong A-lại-da thức, sẽ hiện hành khi đủ duyên. Vì điều này thực sự có cùng loại chức năng với những hạt giống cây cối, nên được đặt tên theo cách ẩn dụ như thế. Tuy vậy chúng ta không nên đi quá xa khi giải thích như những hạt giống vật chất. Chủng tử được giải thích như “năng lực tạo quả trong thức thứ tám,” có nghĩa là tiêu biểu cho năng lực gây nhân để quả hiện hành trong A-lại-da thức. Chủng tử tiêu biểu động lực của dấu ấn, và cũng được hiểu theo thuật ngữ đồng nghĩa là tập khí hay tập nghiệp.
Tập nghiệp có nghĩa rộng là “khuynh hướng gây ra bởi sự huân tập.” Ý niệm về chủng tử và sự huân tập còn phôi thai trong Duy thức Học Phật Giáo, và tuy có vẻ như là khái niệm khó hiểu, lại cần thiết để hiểu về sự vận hành của nghiệp và thức trong Duy thức.
Trong sách Lý Tưởng Đông Phương (The Oriental Ideal), Okura Tenjin có viết “Chắc chắn là bóng của quá khứ hiện hữu như lời hứa cho tương lai. Không cây nào có thể mọc lớn hơn tiềm năng chứa trong hạt giống được.” Ở đây từ chủng tử được dùng với ý nghĩa căn bản sinh vật học, hơn là như một từ của Duy thức, có thể được hiểu như chân lý tổng quát. Tuy nhiên, chân lý được hiểu bởi Duy thức là những gì mà ta gọi là “quá khứ” sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành tương lai, và tương lai là một thứ gì không thể dễ dàng thay đổi. Điều này sẽ được nói kỹ trong phần kế tiếp.
Tôi đã được nghe rằng vị thầy về nghệ thuật sân khấu cổ điển Miyake Tokuro của Nhật Bản, nổi tiếng về kỷ luật khắt khe mà ông tự đặt ra cho mình trong khi tập dượt, đã nói một câu mạnh mẽ rằng “không có điều gì gọi là may mắn trên sân khấu cả”; sự may mắn ám chỉ trường hợp một người trình diễn giỏi chỉ vì ngẫu nhiên. Một sự trình diễn hay nhất tùy thuộc hoàn toàn vào sự tự kỷ qua tập luyện kiên định.
Thứ không được chứa trong tàng thức sẽ không bỗng nhiên xuất hiện vào lúc ra trước ánh đèn. Dù cố gắng đến đâu, nếu tiềm năng cần thiết không được tích lũy trong tàng thức sẽ không thể biểu hiện khi cần. Điều đó cũng áp dụng cho chúng ta dù không trình diễn trên sân khấu. Thật ra, cái gì được huân tập trong A-lại-da thức? Đây là câu hỏi chúng ta đang đề cập, từ “sân khấu” thay thế bằng “đời sống con người” sẽ diễn giải lại câu nói như sau: “Không có điều gì là may mắn trong cuộc đời.”
HUÂN TẬP VÔ THỦY
Trong Duy thức không có trường hợp hành động của chúng ta, khi đã hoàn tất, đơn giản là xong hết, hay chúng ta không còn trách nhiệm gì nữa. Sau khi sự việc xảy ra, những chủng tử huân tập được tích lũy trong thức thứ tám như là những tiềm năng đang ghi nhận tất cả mọi thứ.
Nếu ta chấp nhận điều này, sẽ hiểu A-lại-da thức như là chỗ tích lũy toàn bộ kinh nghiệm đời sống – không gì khác hơn là cái “tôi” đang có mặt. Khi nghiêm túc suy nghĩ do đâu những hành động và thái độ của mọi người sau khi được sinh vào thế giới này lại được gieo trồng không bị mất mát vào phần thâm sâu của tâm, và ảnh hưởng tiếp tục kéo dài đến bản thân trong hiện tại, cuối cùng chúng ta chẳng thể làm gì khác hơn là thật sự quan tâm đến một cách sâu xa.
Thêm vào đó, việc huân tập chủng tử, các nhà Duy Thức cho rằng đã tiếp tục từ vô thủy, không có khởi đầu, và những chủng tử trong tàng thức không phải chỉ đơn giản sinh ra một lượt với đời này.
Điều này làm chúng ta suy nghĩ về ước muốn được sống hoài ở đời. Dù có thất vọng bao nhiêu hay chúng ta cảm thấy cuộc đời chúng ta quá ư rắc rối, chúng ta vẫn muốn tiếp tục sống càng lâu càng tốt. Triết lý Phật giáo xác định rằng khổ đau đến từ sự vướng mắc vào cuộc đời, và vì sự vướng mắc mãnh liệt này mà chúng ta tiếp tục tranh đấu suốt đời.
Phần lớn chúng ta nắm giữ trạng thái vướng mắc mãnh liệt này cho tới lúc sắp lìa đời. Rất có thể ý nghĩ “Tôi muốn sống” xuất hiện vào giây phút lâm chung là cảm giác mạnh mẽ nhất được giữ trong đời người. Phật Giáo dạy rằng chính vì chúng ta bị quá ràng buộc vào cuộc đời cho đến giây phút cuối đến nỗi cho chúng ta phải sinh trở lại đời sau. Điều này gọi là luân hồi. Có nghĩa cuộc đời mà chúng ta đang sống bây giờ và ngay đây chính là do chúng ta nắm giữ ràng buộc mãnh liệt để tồn tại trong đời trước. Và đời trước của chúng ta phải là thứ gì gây nên một sự “ràng buộc vào cuộc đời” trong kiếp sống trước đó. Đây là trường hợp chúng ta có thể dò tìm sự hiện hữu của mình trong hiện tại ngược về vô thủy trong quá khứ.
Tàng thức chúng ta không những chỉ gồm những hành động, khuynh hướng, và những dấu ấn bắt đầu từ khi chúng ta được sinh ra trong đời này, nhưng còn được huân tập bởi những chủng tử của hành động và thái độ từ vô lượng kiếp trong quá khứ. Đó là ý nghĩa của “sự huân tập vô thủy.” Giáo lý dạy như thế, đương nhiên chúng ta sợ hãi trước sự sâu thẳm vô biên và khả năng vô bờ của A-lại-da thức, và quan tâm đến những gì có thể đã được huân tập và cất giữ trong chúng ta.
Tuy nhiên, trong khi âu lo về cái mênh mông của A-lại-da thức, chúng ta nên bình tĩnh suy nghĩ về cái gì trên đời này là “cái tôi” đã trải qua biết bao đời sống từ thời vô thủy? Như thế, mới biết chúng ta ràng buộc mãnh liệt vào cuộc đời. Với cụm từ “ràng buộc vào cuộc đời” thay thế thuật ngữ trong Duy thức học, chúng ta có thể bắt đầu chánh niệm sâu hơn.
Trong Duy Thức học, nguyên nhân tái sinh được cho là xáo trộn tâm ý, và điều này đích thực gồm những tâm sở phiền não và tùy phiền não đã được liệt kê trong danh sách những tâm sở ở chương trước. Tuy không được xác định rõ ràng trong kinh sách Duy Thức, nhưng nếu hiểu chức năng của tàng thức theo cách đã học, chúng ta có thể cho rằng tàng thức có cất giữ, nhưng chúng ta không biết, một thứ gì đó đi ngược về tận nguồn gốc hiện hữu loài người với cuộc đời.
Nhận biết này không tạo ra điều gì khác hơn ngoài việc khiến mỗi cá nhân chúng ta biết rằng nên tôn trọng mỗi đời sống và tất cả đời sống như một thành viên trong vũ trụ loài hữu tình. Và đồng thời mỗi cá nhân chúng ta cần phải hiểu biết sâu sắc về viễn tượng cố gắng sống một đời sống đặt căn bản trên sự hiểu biết và tôn trọng sự sống ở mọi dạng thức.
BA HÀM TÀNG CỦA TÀNG THỨC
Trong những bản văn Duy Thức cổ có nói đến ba hàm tàng của tàng thức: năng tàng (cái kho); sở tàng (cái được cất giữ); và chấp tàng (cái kho bị chiếm dụng). Dựa những ý này làm tiếp cận căn bản để xem xét A-lạida thức, bây giờ chúng ta nhìn một cách khác điều đã đề cập và chỉ cho thấy A-lại-da thức gắn liền với ba hàm tàng như thế nào.
- Năng tàng ngụ ý tâm sâu kín này có đặc tính căn bản là gìn giữ kinh nghiệm của chúng ta trong chủng tử. Đó là “tâm chứa tất cả những chủng tử.” Xem xét trên bình diện chủng tử, sẽ có những thứ được chứa trong A-lại-da thức. Nhưng nếu chủng tử tự nhìn, không để ý tới kho chứa, sẽ là vật nổi lên để hiện hành. Chủng tử là nguyên nhân chánh tạo thành bản ngã. Khi nhìn từ khía cạnh nhân quả như là tiềm năng, A-lại-da thức được gọi là “thức chứa đựng tất cả chủng tử.”
- Sở tàng có nghĩa là tàng thức, là kho chứa sự huân tập.
Chủng tử là những dấu ấn và khuynh hướng hành động cụ thể khác nhau của chúng ta có thể huân tập vào A-lại-da thức. Nếu xem đây là cái kho, A-lại-da là kho nhận sự huân tập trở thành cái được chứa. Như thế cái được chứa trở thành cái nhận sự huân tập. Nhưng nếu được nhìn trên bình diện hành động và thái độ, A-lại-da thức nhận chịu sự huân tập cũng hiện hữu như là kết quả của những hành động đó.
Thức thứ tám được nhìn từ khía cạnh công dụng được gọi là dị thục thức. Thức A-lại-da tiếp tục không đứt đoạn từ quá khứ đến tương lai, và hoạt động như để hỗ trợ việc làm không liên tục của ý thức.
Trong Duy thức Phật Giáo, thức thứ tám, hoạt động như nền tảng cho con người hiện hữu , từ khởi thủy không có tính thiện hay bất thiện, và như vậy có tính chất bất định hay trung tính trên phương diện tạo nghiệp về mặt đạo đức.
Nếu cội nguồn căn bản hiện hữu của chúng ta vốn xấu tệ, rốt cuộc chúng ta sẽ ở trong vòng thế gian luân hồi đau khổ mãi mãi, không thể nào đặt chân vào thế giới của chư Phật được. Mặt khác, nếu chúng ta tốt từ trong bản chất và tất cả tâm của chúng sinh được nối liền với Phật tâm, điều này rất khó phù hợp với kinh nghiệm sống hằng ngày của chúng ta trong xã hội.
Đây không phải là trường hợp sinh hoạt và thái độ hằng ngày của chúng ta đi theo hướng này hay hướng kia. Điều này sẽ sáng tỏ chỉ cần nhìn vào 51 tâm sở trong chương 3 ở trên. Ngay cả khi chúng ta ham muốn điều gì đó, chúng ta có thể cùng lúc đó quán xét kỹ về lòng khát ái của mình. Trong khi tinh tấn hết sức mình tu theo Phật Đạo, chúng ta có thể bất giác nổi giận. Bản chất chúng ta không có khuynh hướng thiện hay ác mà có tính chất nghiệp bất định.
Chắc chắn là chúng ta đang gieo những chủng tử tốt vào tàng thức bằng hành động thiện, và đang thấm nhiễm dấu ấn với tiềm năng xấu bằng hành động bất thiện. Điều này có thể đúng vì thức thứ tám không có khuynh hướng căn bản nghiêng về xấu hay tốt, nhưng có đặc tính bất định về tạo nghiệp trên mặt luân lý.
Tùy theo chủng tử tốt hay xấu đã được gieo trồng, những hành động khác nhau thực sự và cụ thể xấu và tốt xảy ra. Tuy vậy, thức thứ tám không nghiêng về tốt hay xấu. Tự những hành động cá nhân, cùng với sự huân tập từ những dấu ấn, có thể là nghiệp thiện, bất thiện hay bất định (trung tính) về tạo nghiệp trên mặt luân lý, nhưng nếu A-lại-da thức – là kết quả những hành động – xem như một tổng thể thì không thiện cũng không ác.
Chỉ vì nhân tốt cho quả tốt và nhân xấu mang lại quả xấu, nhân và quả được hiểu là có cùng tính chất tạo nghiệp trên mặt luân lý (trong Duy thức, điều kiện này được đề cập với thuật ngữ đẳng lưu.)
Nhưng trong A-lại-da-thức-như-là-quả, dù được sinh ra từ chủng tử tốt hay xấu, kết quả của hành động thì luôn luôn được hiểu có tính chất bất định hay trung tính.
Sự tương quan nhân quả này gọi là dị thục, và A-lại-da như là một khía cạnh của quả được hiểu theo cách này, và được gọi là dị thục thức. Nói một cách khác, trong trạng thái dị thục A-lại-da có tính chất tạo nghiệp trên mặt luân lý khác hơn nhân của nó. Khi một sự việc sinh ra một sự việc khác, sự việc kế đó được tạo ra, và trong khi có liên quan trực tiếp và gần gũi với nhân, sự việc kế tiếp này cũng phải là một cái gì đó khác với nhân của nó. Những lối ẩn dụ thông thường nói tới sự chín muồi của hoa quả, hay một ổ bánh nướng, cả hai đều rất khác trong tính chất với những giai đoạn khởi đầu, và đã dùng hết tiềm năng của chúng để phát triển xa hơn.
Khía cạnh này của A-lại-da, có tính bất định bản hữu về luân lý, thật tối quan trọng trên bình diện tôn giáo. Tuy rằng chúng ta, những con người bị ảnh hưởng lớn lao bởi quá khứ của chính mình, lại đồng thời được phú cho tiềm năng tạo dựng một tương lai hoàn toàn khác biệt, bắt đầu ngay đây và bây giờ, dù rằng quá khứ chứa đầy nghiệp xấu đến đâu. Nhưng ở mặt khác, ngay cả nếu mỗi ngày chúng ta đều nỗ lực tu tập để đạt quả Phật, chúng ta cũng không thể nào đoan chắc đạt được mức toàn hảo.
3- Chấp tàng ám chỉ sự ràng buộc vào lòng ái ngã. Chúng ta có cảm tưởng là chúng ta sống có ý thức mỗi ngày trong cuộc đời mình. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, những hoạt động của ý thức và tiền ngũ thức thì bị gián đoạn và được A-lại-da thức, căn bản của sự hiện hữu con người, hỗ trợ một cách rộng rãi. Trong Duy Thức Học Phật Giáo, lý do duy nhất để chúng ta có thể có một sự hiện hữu hợp nhất là vì tàng thức.
Thức A-lại-da là một vùng tâm thức đã vươn tới hiện tại theo một dòng tương tục không bị ngăn chặn trong khi tiếp nhận sự huân tập vô thủy không bị đứt đoạn từ quá khứ, và sẽ tiếp tục không đứt đoạn tới tương lai. Bậc đại đạo sư người Ấn là Thế Thân, người đã đóng góp công trạng lớn đặt nền móng cho Duy Thức học Phật Giáo, đã mô tả thức A-lại-da trong Duy Thức Tam Thập Tụng như “hằng chuyển như bộc lưu.” Thức A-lại-da sâu dầy của chúng ta, giống như một con sông lớn, cuồn cuộn tuôn đổ từ nguồn vô tận trong dòng chảy không gián đoạn. Tàng thức này luôn luôn ở trong trạng thái hằng chuyển. Tuy nhiên, A-lại-da trong khi không phải là bất di bất dịch lại có đặc tính không thay đổi và hằng chuyển.
Thức thứ bảy, Mạt-na, vận hành theo phương cách cố nhận ra khía cạnh không thay đổi của tàng thức như một bản chất bất biến.
Thức Mạt-na lấy bản chất có vẻ như bất biến này làm đối tượng và bám chặt vào đó, tin đó là cái ngã của mình. Cách Mạt-na hiểu lầm và cụ thể hóa thức A-lại-da tạo nên hàm ý thứ ba của tàng thức: thức chấp tàng.
Trong khi Duy Thức Học Phật Giáo giảng giải thức A-lại-da với ba hàm tàng năng tàng, sở tàng và chấp tàng, chính ý nghĩa chấp tàng cần phải quan tâm nhiều. Phương diện hiện hữu do Mạt-na cụ thể hóa là đặc tính của thức A-lại-da. Các nhà Duy Thức biện giải rằng cốt lõi của đau khổ nằm ở chỗ Mạt-na – thức chấp ngã – tự dấn thân vào hoạt động ngã chấp, lấy thức A-lại-da làm tướng phần (đối tượng). Như thế chúng ta có thể nói ý nghĩa chấp tàng xác định tương quan giữa thức thứ tám A-lại-da và thức thứ bảy Mạt-na.
BÌNH ĐẲNG TƯƠNG TỤC
Vì vậy sự liên hệ giữa thức Mạt-na và thức A-lạida là thức Mạt-na, thức chấp ngã, nhận tàng thức thâm cùng làm đối tượng, hiểu lầm cho rằng đó là cốt lõi cụ thể của bản ngã và bám chặt vào đó, và trong sự liên hệ này Duy Thức Học Phật Giáo nhìn ra được nguyên nhân những vấn đề con người. Do đó trong ba hàm tàng – năng tàng, sở tàng và chấp tàng – chấp tàng quan trọng nhất trên quan điểm tôn giáo.
Tàng thức chịu sự huân tập từ vô thủy, bị xem như là đối tượng ngã chấp của Mạt-na vì sự hiện hữu của một vùng tâm – nền tảng tâm lý – có vẻ thay-đổi-mà-khôngthay-đổi, và hoạt động để giữ một thứ gì đó giống như một cái ngã đồng nhất. Tính chất đặc biệt này của thức A-lại-da được gọi là tương tục tướng hay tương tục (thực thể) đồng nhất. Tương tục tướng có nghĩa tính chất bất biến liên tục không bị gián đoạn.
Trong tàng thức có một đặc tính tương tục đồng nhất đã tiếp nối không thay đổi và không bị đứt quãng từ quá khứ xa xưa. Và tàng thức với đặc tính nghiệp bất định, là thức ghi nhận những thái độ và sinh hoạt hằng ngày đầy những gián đoạn của chúng ta, gom cột lại với nhau, tích lũy, và hiệp nhất.
Đối phó với vô thường và vô ngã
Ba nguyên lý căn bản để nhận chân Phật Giáo là:
- các pháp vô thường
- các pháp vô ngã
3-toàn bộ giáo lý chân chánh Phật giáo, và bất kỳ giáo lý nào không căn cứ trên ba dấu ấn đó bị xem là phi Phật Giáo. Trong ta và thế giới tự nhiên, tất cả các pháp đều sinh, trụ, diệt. Sinh và trụ xảy ra từng phút giây là ý nghĩa vô thường của tất cả các pháp. Đây là khái niệm căn bản nhất trong đạo Phật.
Thoạt nhìn chúng ta có thể sẵn sàng xem sự thật này thật là hiển nhiên. Đương nhiên chúng ta hiểu rằng mọi vật không ngớt thay đổi. Tuy nhiên chúng ta có thể không thấy thoải mái với sự vật luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi liên tục, vì làm chúng ta bất an. Chúng ta phấn đấu nắm đứng sự vật đang luôn thay đổi và liên tục o ép vào khuôn khổ của chúng ta, cụ thể hóa và cố nắm bắt, đồng thời cụ thể hóa sự hiểu biết thu lượm từ tiến trình này. Đó không phải là cách chúng ta hành động hằng ngày sao?
Rõ ràng là chúng ta đang làm cho đời sống chúng ta phong phú lên khi hằng ngày tích lũy những kinh nghiệm mới. Tuy nhiên, trong khi già đi chúng ta không ngừng nhận rõ khả năng phục hồi thể chất mệt mỏi ngày càng kém. Nếu vào lúc đó chúng ta nhìn lại lúc tuổi 20 hay 30, chúng ta mới biết sự thay đổi vi tế trong sức khỏe thể chất của mình. Và chúng ta nhớ lại rằng mọi người đã cố báo động cho chúng ta biết, nhưng vì lúc đó quá trẻ và quá kiêu hãnh chúng ta không để ý tới. Tuy vậy ngay cả khi chúng ta đến lúc hiểu là thân và tâm luôn luôn thay đổi, chúng ta cũng vẫn còn giữ cảm giác hoàn toàn bị sự thay-đổi-nhưng-không-thay-đổi thẩm thấu.
Vài tông phái triết học cổ Ấn Độ tin rằng khía cạnh thay-đổi-nhưng-không-thay-đổi hiện hữu nơi con người như bản chất bất biến, họ gọi là ngã (atman). Cái ngã này được hiểu là chủ thể của luân hồi, một thứ gì bất tử, đi từ quá khứ đến tương lai, lặp đi lặp lạixuyên qua sinh tử. Nhưng nếu tất cả mọi thứ đều biến dịch làm sao chúng ta biết có hiện hữu một cái ngã bất biến, bất tử? Cái ngã có thực chất này bị Đức Phật phủ nhận triệt để, và đó là ý nghĩa các pháp vô ngã.
Ngay cả dù hiểu bằng tri thức rằng cái ngã đó không thể là bản chất bất biến, chúng ta vẫn đi tìm bản chất ấy nơi mình và bám vào đó, và kết cục chúng ta bị trói buộc. Đức Thích Ca Mâu Ni bảo chúng ta buông bỏ ý muốn không thích hợp này, và cố gắng can đảm điều khiển cuộc đời mình dựa vào những thực tại của vô thường và vô ngã. Ngài dạy rằng một đời sống tùy thuận những thực tại này sẽ đưa chúng ta đến giải thoát mọi trói buộc một cách tự nhiên và chính đáng, và hoàn toàn thanh tịnh.
Đây là Niết-bàn tịch tĩnh, một trạng thái an bình được biểu lộ nơi thân và tâm, hài hòa với thực tại. Tuy vậy, ở đây có một vấn đề, vì ngoài tam pháp ấn, đạo Phật bao gồm cả ý niệm tái sinh là một trong những nguyên lý căn bản của đạo. Được dạy về giáo lý vô ngã, chúng ta sẽ hiểu cái gì là chủ thể không ngừng phải trôi lăn trong sinh tử?
Trong thời cổ Ấn Độ, người ta nghĩ rằng chúng ta phải liên tiếp tái sinh với chân ngã bất tử như một chủ thể. Nhưng vì Đức Phật dứt khoát phủ nhận một cái ngã trường tồn như thế, đạo Phật phải xác định một chủ thể của sự luân hồi mà không làm suy yếu thuyết vô ngã. Sau khi Đức Phật nhập diệt, nhiều tông phái Phật giáo đưa ra rất nhiều lý thuyết về vấn đề này. Cách giải quyết thận trọng nhất của vấn đề này là thức A-lại-da như các nhà Duy Thức thừa nhận. Là một câu trả lời cho một bản chất vĩnh viễn phi hiện hữu , các vị này đã thấy được một cái tâm tiềm tàng tương tục với tính chất nghiệp bất định, cất giữ và tích lũy dấu ấn những kinh nghiệm như là chủng tử có tiềm năng tạo quả và chấp nhận điều này như chủ thể của sự tái sinh.
TÓM TẮT
NẾU CÁC PHÁP KHÔNG ĐƯỢC DỄ DÀNG TẨY RỬA, RỒI CHÚNG TA LÀM GÌ?
Trong ý thức, những kinh nghiệm thường ngày của chúng ta thường bị quên đi mau chóng. Chúng ta có thể say mê đọc một cuốn tiểu thuyết, nhưng chắc là sau vài năm, chúng ta khó mà nhớ lại từng phần cốt truyện. Tuy nhiên, ngay cả khi hoàn toàn bị quên về mặt ý thức, vẫn được lưu giữ đàng hoàng trong tàng thức.
Có thể nói rằng có một loại tàng thức như thế bảo quản toàn bộ quá khứ của chúng ta, cái ngã hiện tại của chúng ta ở trên đỉnh tàng thức đó, và làm nền tảng của chúng ta. Theo nghĩa này, những hoạt động và kinh nghiệm của chúng ta không thể nào được tẩy rửa đi một cách dễ dàng. Nhưng trong phạm vi trí nhớ của chúng ta, chúng ta có khuynh hướng cố gắng tẩy rửa sự hồi tưởng những sự cố phiền phức, cố hành động như thể chưa bao giờ có.
Ý tưởng “tẩy rửa” được hiểu rõ ràng trong một số người Nhật. Có thể có lý khi sự kiện phải luôn luôn đối phó với quá khứ liên hệ đến truyền thống văn hóa dân tộc. Dù điều này đúng hay sai, nếu từ quan điểm Duy Thức soi rọi vấn đề, chỉ một sự đồng tình quên đi một sự kiện rốt cuộc là thái độ xử lý một vấn đề trong quá khứ hời hợt nhất. Chúng ta có mặt hiện nay do nhiều điều đã làm từ quá khứ, không kể xấu xa bao nhiêu. Vấn đề là chúng ta đã huân tập vào A-lại-da thức.
Trong thế giới Phật Giáo, tu dưỡng một khía cạnh đặc biệt của tâm và thân thường được thi hành theo một khuôn khổ truyền thống trong một khoảng thời gian gọi là “tu tập.” Nhưng khi chúng ta nỗ lực hết sức để đánh giá cuộc sống hằng ngày như đang là, cố gắng không cẩu thả trong ba nghiệp thân-khẩu-ý thì không chỉ gọi là “tu tập”; đúng hơn còn có tên theo thuật ngữ Phật giáo là “thực tập ứng dụng.”
Điều này có nghĩa khi, hay trên một khía cạnh khác, thực tập không “ứng dụng” được tức là chúng ta đang sống hằng ngày một cách cẩu thả. Thực tập ứng dụng nói đến giữ gìn chánh niệm liên tục. Thí dụ như trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn danh từ chánh niệm thường xuyên hay xuất hiện, khuyên nhắc mọi người thường nhớ tới Bồ-tát Quán Thế Âm. Kết quả là Bồ-tát Quán Thế Âm dần dần được ghi khắc vào phần sâu thẳm nhất của tâm chúng ta, và chánh niệm Bồ-tát được tích lũy trong A-lại-da thức. Chúng ta phát triển một năng lực tâm linh định tĩnh, từ đó sẽ hỗ trợ và làm nền cho sự tu tập mai sau.
Quá khứ không thể thay đổi được hay được quét sạch bởi thứ tha. Chúng ta chỉ là một kho chứa quá khứ to lớn. Và bất kể những kinh nghiệm đã qua, chính toàn bộ quá khứ chúng ta là căn bản đời sống của mình. Tuy vậy, nhận lấy toàn bộ này làm căn bản, chúng ta có thể từ giờ phút này sống theo lời Phật dạy hướng tới tương lai. Đây là bắt đầu một đời sống đặt căn bản trên trí tuệ của Duy Thức Học.
Khả năng này nằm trong sự thực là A-lại-da thức là một thức hằng dị thục. Tuy chúng ta đang sống với quá khứ mà ta không thể nào chối bỏ được, chúng ta cũng đang hiện hữu ngay đây và bây giờ trong một hiện tại không thiện cũng không ác – bất định. Đức Phật đã cảnh báo chúng ta thế nào là ác tâm có thể liền đó cháy cả rừng công đức đã khó nhọc tạo nên, và như thế chúng ta nên cố gắng chú tâm và đứng lên ra khỏi quá khứ sai trái của chúng ta.
Kinh Di Giáo (?) đã dạy: “Người tu tập nhẫn nhục là một người có đại thần thông.” Tuy nhiên ngay cả khi một người có thần thông vĩ đại, nếu vị ấy chỉ nổi giận một lần, vị ấy cũng không hơn gì một người phàm phu. Sự thực là chúng ta dựa trên nền tảng quá khứ vững chắc này, và cùng lúc có thể trông đợi một tương lai sáng sủa, đó là cách thức chúng ta sống, tất cả đều được chứa đựng trong thức A-lại-da sâu dầy.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet