Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

Chương Năm: Sự phát sinh của các pháp

THỨC CHỨA ĐỰNG TẤT CẢ CHỦNG TỬ

 Nếu A-lại-da thức có chức năng duy nhất là âm thầm gìn giữ và tích lũy dấu vết tất cả hành động trong toàn bộ kinh nghiệm quá khứ mà không bỏ sót một chút gì, thì A-lại-da thức không thể là nguồn của khổ đau và phiền não cho chúng ta. Vấn đề lại nằm trong sự kiện là những kinh nghiệm quá khứ tiếp tục diễn biến và trở thành những yếu tố nhân quả chính trong sự hình thành một cái “Ngã” sau đó.

Từ “chủng tử” ám chỉ năng lượng tiềm tàng, khi nhân duyên chín muồi, sẽ hiện hành liên quan tới hành động trước đây. Chủng tử có thể được mô tả như “tiềm năng trong thức thứ tám tạo ra quả.” Cách cư xử ngày hôm qua và hành động ngày hôm nay tạo ra con người ngày mai, và chức năng cùng với sức mạnh mang lại kết quả như thế là “chủng tử.”

Gọi thức A-lại-da là “thức chứa tất cả chủng tử” nghĩa là dấu ấn-khuynh hướng của những hoạt động và thái độ quá khứ lưu giữ trong thức thứ tám trở thành nhân ban đầu từ đó sinh ra các pháp trong tương lai. Danh từ tất cả các pháp rất phổ biến trong kinh Phật, và vì thế chúng ta sẽ giải thích ý nghĩa căn bản của từ nàỵ Tuy rằng nghĩa của chữ pháp rất rộng, tôi muốn tập trung vào hai nghĩa quan trọng nhất có liên quan tới cuộc thảo luận của chúng ta bây giờ.

Cách dùng thứ nhất nằm trong cụm từ Phật-pháp. Giáo lý được đức Phật truyền dạy gọi là Phật pháp, thường được diễn tả giản dị là Pháp. Khi chúng ta thấy những cụm từ như “tìm Pháp” hay “vì mục đích của Pháp” đó là muốn đề cập tới giáo lý.

Nghĩa chính thứ hai của từ pháp được dẫn trong cụm từ tất cả các pháp có nghĩa hiện hữu hay sự vật. Cụm từ tất cả các pháp có nghĩa là tất cả mọi vật hay mọi hiện tượng, nói tới tất cả những sự vật và hiện tượng đang hiện hữu. Quí vị có thể nhớ lại phần trước chúng tôi đã giới thiệu danh xưng được truyền bá tại Á Đông của tông Duy thức như là Pháp Tướng Tông và cách dùng của từ pháp ở đây cũng bao hàm nghĩa của tất cả mọi thứ hiện hữutất cả sự vật.

Pháp Tướng Tông có khuynh hướng lưu ý đặc biệt về sự xác định và giải thích đặc tính và tướng trạng chính xác của những pháp này.

Hơn nữa, sự sản sinh ra tất cả các pháp nói tới sự xuất hiện mọi hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, và trong đó gồm có sự hình thành bản ngã của chúng ta. Năng lực tạo nhân sinh ra của các pháp là những chủng tử tàng trữ trong A-lại-da thức. Trong phạm vi chức năng những chủng tử này, khi đủ duyên, các hiện tượng sẽ hiện hành trước mắt chúng ta. Chính thái độ của chúng ta cũng trở thành một thực tại hiện hành, và không còn là tiềm năng suông nữa.

 CHỦNG TỬ VÀ HIỆN HÀNH

Cụm từ hiện hành chủng tử huân tập ám chỉ những chủng tử tượng trưng cho lực đẩy của những dấu ấn hiện hành đã được gieo trồng vào trong A-lại-da thức – cùng những hiện hành này ban đầu đã được sinh ra từ những chủng tử. Quá trình làm sinh khởi những hiện hành được gọi là chủng tử phát sinh ra hiện hành.

Trong Duy Thức Học Phật Giáo, hai chức năng này chưa bao giờ được nhận thức là hoạt động như hai quá trình khác nhau, mà chủng tử nối kết với nhau như một – chủng tử phát sinh hiện hành.hiện hành huân tập chủng tử. Vòng tương tục hoạt động theo cách mà chủng tử là những khuynh hướng-dấu ấn của kinh nghiệm quá khứ làm khởi lên những điều kiện và hành động hiện tại, và những dấu ấn của hành động lại được cất giữ trong A-lại-da thức.

Để diễn tả điều này, có khái niệm của “ba quá trình liên tiếp đồng thời gây ra nhân và quả.” Đó là:

1- hiện hành sinh ra chủng tử 2- chủng tử sinh ra hiện hành

3- hiện hành huân tập chủng tử đã được lưu giữ trong A-lại-da thức. Sự kiện là ba hiện tượng này, trong khi hành động như những nhân quả qua lại, liên tục hành động cái này sau cái kia, và hơn nữa tất cả những sự kiện này xảy ra đồng thời, được gọi là ba quá trình liên tiếp đồng thời gây ra nhân và quả.

Sự kiện này xảy ra tức thời, và theo Duy Thức Học, trong thời gian ngắn hơn một sát-na hiện hành phát sinh từ chủng tử phản xạ của hoạt động quá khứ lại được cất giữ trong A-lại-da thức như là chủng tử và khuynh hướng. Vì hiện tượng này tiếp tục không gián đoạn từ quá khứ vô thủy, giống như sự huân tập từ vô thủy đã được đề cập trước đây. Sự kiện mà chúng ta gọi là ba quá trình gây ra nhân và quả đồng thời cho chúng ta một ý nghĩa phong phú của một hệ thống chức năng hoàn hảo không chấp nhận lý do bào chữa nào.

Thật là dễ dàng cho chúng ta để bỏ tập khí như là một thứ gì mà mọi người đều làm, và như vậy không đáng phải để tâm đặc biệt. Chắc chắn là cái ngã của chúng ta chỉ là một phần trong cảnh vật hằng ngày và luôn tự nhìn lại mình là một phương thức không thoải mái và khó khăn. Tuy nhiên, được đặt căn bản trên ba hiện tượng nối tiếp nhau gây ra nhân quả và sự huân tập từ vô thủy, cung cách chúng ta sẽ trở thành trong tương lai thì cắm rễ sâu xa trong thái độ hằng ngày đã có cho tới bây giờ.

Nhìn lại mình một cách kỹ lưỡng là việc tối quan trọng trong mọi hoàn cảnh, hơn nữa còn là việc không thể thiếu trong thế giới tôn giáo. Chỉ xuyên suốt ba quá trình này mới có thể tạo nên một căn bản vững chắc để đạt được giải thoát. Hồi quang phản chiếu thật sự chỉ có thể xảy ra trong khung cảnh sinh hoạt đời thường.

Tuy chúng tôi không được chính thức huấn luyện trong võ thuật, nhưng nghệ thuật bắn cung truyền thống (cung đạo) luôn luôn làm tôi xúc động. Cung đạo đòi hỏi một mức sử dụng chánh niệm phi thường cho tới lúc bắn mũi tên ra, một mức chánh niệm không thể có được với người thiếu kiên nhẫn. Và bắn mũi tên ra, những lý do bào chữa hoàn toàn vô nghĩa, vì hoàn toàn tập trung thân và tâm vào một điểm duy nhất: hồng tâm đàng xa.

Trong cung đạo, có mức tập trung cao độ của thân và tâm đến nỗi người ta cảm thấy thân, tâm, và hồng tâm hòa làm một. Ngay cả sau khi sự tập trung mà mũi tên không trúng hồng tâm, ta vẫn cảm thấy một cảm giác tĩnh lặng, một cảm giác xuất phát từ sự kiện là vẫn giữ được sự hòa hợp giữa thân-tâm và hồng tâm.

So sánh như thế, chúng ta có thể thấy rõ ràng ý nghĩa cơ cấu hoạt động của chủng tử và hiện hành qua ba quá trình các pháp nối tiếp nhau. Bằng cách xử lý những công việc hằng ngày với cùng một thái độ như thế, chúng ta không cần phải biện bạch nếu bắn không trúng đích trong nghệ thuật bắn cung.

So sánh với những truyền thống tôn giáo và những hệ thống triết lý khác, đạo Phật lưu tâm đặc biệt vào vấn đề không thể tách rời nhân và quả. Cần nhắc lại là tất cả các pháp không xuất hiện khác hơn trên nền tảng nhân và quả, như thế các pháp không tiến triển một cách tình cờ được.

Đây là một trong những khía cạnh căn bản của cách tư duy theo Phật Giáo. Kinh nói là khi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển tại Ba-la-nại, ngài dạy các vị đệ tử về Tứ Đế và Bát Chánh Đạo từ ảnh hưởng mạnh mẽ của lý nhân quả. Tứ Đế là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.

  • Khổ Đế làm rõ ràng quan điểm căn bản nhất của Đạo Phật – đời người căn bản là bất như ý. Nhưng có đúng là chúng ta không thể chứng minh là có nhiều hạnh phúc lớn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta? Hạnh phúc luôn luôn là mục tiêu hằng ngày của chúng ta, mà ngược lại ngày tháng của chúng ta thì đầy những hờn giận và thất vọng.

Nhưng chúng ta đã hiểu rằng thích thú chỉ là phù du. Quá nhiều phen chúng ta kinh nghiệm rằng khi chúng ta tiếp tục làm gì quá độ vì mang lại thích thú thì cảm giác thích thú biến thành khổ đau. Đó là tại vì sự hiện hữu của chúng ta được đặt trên căn bản của khổ đau mặc dù có những lúc vui vẻ.

Đức Phật dạy rằng có tám loại khổ. Ngoài bốn loại khổ căn bản của sinh, lão, bệnh, và tử, chúng ta cũng còn phải chịu khổ đau vì ái biệt ly (xa lìa người hay vật ưa thích), oán tắng hội (gần những vật hay người mà ta không thích), cầu bất đắc, và ngũ ấm xí thạnh.

Cái khổ cuối cùng này có một chút những cái khổ khác, nhưng chính là muốn nói tới cái khổ chúng ta trải qua liên quan tới việc chúng ta không thể quyết định được, xác định được chúng ta thật sự là ai, tuy được dạy cho biết là chúng ta gồm đủ loại yếu tố thân và tâm không cố định xếp đại loại thành năm nhóm là “năm uẩn”. Thí dụ như chúng ta có một ước muốn mạnh mẽ là giữ được trẻ trung mãi mãi, mặc dù yếu và già dần, và sự mâu thuẫn này chỉ mang lại khổ đau.

  • Tập đế – Sự thật phát sinh khi nhận diện những phiền não hay những hành động và thái độ được coi như là những nguyên nhân của nỗi khổ của con người. Vì khổ đau xuất hiện do phiền não của tâm và nghiệp, nên gọi là khổ vì hành khổ.
  • Diệt đế, sự thật thứ ba, cho biết rằng nếu chúng ta cắt đứt những phiền não và nghiệp gây ra khổ đau, chúng ta có thể đạt đến Niết-bàn (sự an bình của tâm).

Diệt đế được coi là mục đích  con người hiện hữu thật sự.

  • Cuối cùng, đạo đế chỉ ra phương pháp và tiến trình theo đó đạt được an bình. Con đường này liệt kê tám mục để tu tập hằng ngày: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.

Trong bốn sự thật (tứ đế) này, chúng ta có thể thấy ý nghĩa của nhân-và-quả trong triết lý Phật Giáo. Trong hai đế đầu, có (1) khổ của sự hiện hữu của con người (quả)(2) phiền não và nghiệp được gây ra (nhân). Trong hai đế sau, (3) sự giải thoát là mục đích thật sự của đời sống con người (quả) thì được tạo ra bởi (4) sự tu tập bát chánh đạo hằng ngày (nhân). Hai chân đế đầu phân tích điều kiện hiện tại thật sự của con người, trong khi hai đế sau liên quan đến chứng đạt Niết-bàn. Những chân đế này lần lượt là nhân-quả bị cấu nhiễm và nhânquả không bị cấu nhiễm. Triết lý Phật Giáo trước tiên cố gắng thấu hiểu trọn vẹn mối tương quan nhân quả mang đến tình trạng thật sự của con người trước khi tiến sâu thêm vào đường đạo.

Luận A-tì-đàm Câu-xá-thích cho biết thêm về chủ đề của nhân và quả như là học thuyết của sáu nhân, bốn duyên, và năm loại quả. Kinh bản đó đã nghiên cứu chi tiết và chính xác nhân và duyên cần có trong việc tạo ra các pháp. Trong nhân và duyên, có bốn loại tổng quát gồm:

  • Nhân duyên
  • Ðẳng vô gián duyên3- Sở duyên duyên

4- Tăng thượng duyên.

Duy Thức Học Phật Giáo lấy nguyên cụm từ này và giải thích như sau:

  • Nhân trực tiếp là nhân tức thì gây ra tất cả hiện tượng chúng ta trải qua trong đời sống hằng ngày. Chủng tử chứa trong A-lại-da thức hoạt động tạo ra những hiện hành. Trên bình diện này, nhân là chủng tử. Sau đó hoạt động hiện hành do chủng tử gây ra lập tức huân tập những chủng tử ấn tượng-động lực trong A-lại-da thức và theo cách này, hoạt động hiện hành là nhân trực tiếp của những chủng tử đó.

Như vậy có hai loại nhân trực tiếp: chủng tử như là nhân trực tiếp, và hoạt động hiện hành như là nhân trực tiếp. Với hai loại nhân này làm duyên, tất cả các pháp được sinh khởi, và quả mà chúng ta gọi là chủng tử sinh ra hiện hành, hiện hành huân tập chủng tử.

  • Đẳng vô gián duyên – Nhân qua những duyên tương tự và xảy ra ngay trước đó ám chỉ tình trạng từ đó một tâm sở nào đó (tâm vương hay tâm sở) xảy ra tương tục, với tâm vương.tâm sở trở thành duyên cho tâm vương.tâm sở theo sau. Không có một sự ngắt quãng nào giữa quá khứ và hiện tại, đưa đến điều mà chúng ta gọi là duyên tương tự và xảy ra ngay trước đó.
  • Sở duyên duyên ám chỉ khả năng tạo ra nhân của những đối tượng nhận thức. Nếu một đối tượng nhận thức không có mặt như là một duyên, khả năng nhận thức không thể có, vì hình ảnh được chiếu rọi lên (khía cạnh khách quan) được hiện hành trong tâm không xuất hiện. Các pháp thuộc thế giới bên ngoài vừa làm dấy khởi lên các khía cạnh khách quan và đối tượng nhận thức gián tiếp, và như thế chúng được bao gồm trong loại Sở duyên duyên.
  • Tăng thượng duyên như là nhân và duyên ám chỉ phụ thuộc hành động trong việc sinh ra các pháp, nằm ngoài phạm vi của ba loại nhân và duyên được giới thiệu ở trên. Trong khi điều đòi hỏi đầu tiên trong việc tạo ra quả là nhân duyên, tăng thượng duyên cũng cần thiết – phải có một môi trường thân thiện, nâng đỡ để các pháp có thể xảy ra – hay ít nhất một môi trường không ngăn cản sự việc xảy ra.

Đó là những nhân tăng thượng duyên. Trường hợp đầu có một nghĩa tích cực được gọi là tăng thượng thuận, và vì trường hợp sau chỉ thiếu một sự ngăn trở nên gọi là tăng thượng duyên không ngăn trở.

Các pháp (trong trường hợp này, trong tiếng Anh thường được diễn tả như là những yếu tố hay nhân tố) được chia ra làm hai loại lớn: tâm pháp và sắc pháp. Tâm pháp xảy ra căn cứ trên bốn loại nhân và duyên trong khi sắc pháp được sinh khởi bởi hai loại nhân và duyên (nhân duyên và tăng thượng duyên). Sắc pháp được thiết lập trên những chủng tử trong tàng thức.

Tới đây chúng ta có thể thấy cách giải thích của Duy thức học Phật giáo về việc vạn pháp xảy ra phần lớn xuyên qua ý niệm về chủng tử và hiện hành.

Vì dùng từ vạn pháp có khuynh hướng khách quan hóa tiến trình này, chúng ta nên nhắc lại điểm được đề cập chỉ là nội dung của đời sống hằng ngày của chúng ta mà thôi. Và thực tế là những sinh hoạt hằng ngày chỉ dựa trên những chủng tử tích lũy trong A-lại-da thức, có nghĩa chúng ta chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta xử lý mọi việc tốt đẹp, chúng ta có khuynh hướng thấy là nhân của sự thành công là do chúng ta. Nhưng khi mọi việc không xuôi chèo thuận mái, chúng ta lại đổ trách nhiệm hay trách cứ người khác, hoặc cho là tại nguyên nhân bên ngoài. Những thái độ lừa lọc như thế hoàn toàn vô ích vì thực tế những chủng tử và hiện hành là nhân trực tiếp.

Ý nghĩa “không ngăn cản” cho chúng ta thấy tầm nhìn của Phật Giáo bao quát khi lưu tâm đến những trợ duyên hình thành mỗi pháp. Ngay cả mỗi khía cạnh thế tục nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta đã qua đi và bị lãng quên cũng đóng góp vào sự thành lập cái “tôi” trong hiện tại. Sự nhận thức này làm cho việc bỏ qua những hậu quả của tất cả những tương tác hằng ngày khó khăn hơn. Và khi suy nghĩ về những tăng thượng duyên bên ngoài những động cơ trực tiếp, chúng ta có thể nghĩ rằng mình như được đặt trên mặt của một khu đất sản xuất mầu mỡ.

Tuy rằng những hiện hành tạo ra từ những chủng tử gieo thêm dấu vết mới ấn trở lại vào A-lại-da thức như những chủng tử đồng thời với sự sinh sản ra chủng tử, không nhất thiết là những chủng tử được huân tập trong A-lại-da thức lập tức lại gây ra những quả mới. Thật ra, có một số rất nhiều trường hợp trong đó hiện hành không thể trực tiếp đạt được, nghĩa là những duyên cần thiết phải được tiên liệu và sửa soạn để cho bất cứ sự kiện nào xảy ra.

Ở đây có một vấn đề xảy ra: nếu duyên cần thiết vắng mặt, điều gì sẽ xảy ra cho chủng tử? Eishun (1518-1596) thuộc chùa Hưng Thánh vào thời Muromachi đã nói rằng: “Mặc dù kinh nghiệm có ra sao, cũng không thể tránh khỏi bị giữ lại bởi những chủng tử chắc thật và không bị hủy hoại.” Trong nhật ký của ngày thứ hai mươi chín của tháng 12 năm thứ 16 thuộc triều đại Tensho (1588) ngài viết là “Điều này có nghĩa đơn giản là những chủng tử không bị hư hoại.”

Theo cách này, những dấu ấn và khuynh hướng đã được lưu giữ trong tầng sâu của tâm chúng ta không biến đi chỉ vì không có hoàn cảnh thích hợp để hiện hành. Chủng tử trong A-lại-da thức là nhân để sinh ra trái như những hiện hành, trong trạng thái âm ỉ, lại sản sinh ra và dập tắt từng lúc một, trong khi đồng thời chuyển đi và tiếp tục giữ đặc tính, chờ đợi môi trường thích hợp để hiện hành.

Quá trình này được gọi là chủng tử sinh ra chủng tử. Hai loại chủng tử sinh ra và được sinh ra hiện hữu trong tuơng quan nhân quả với nhau. Những chủng tử trước (nhân) sinh ra những chủng tử tiếp theo (quả). Vì nhân và quả tạm thời, không phải là tương quan đồng thời như trong trường hợp chủng tử sinh ra hiện hành và hiện hành huân tập chủng tử, nên gọi là thứ đệ nhân duyên.

Tiến trình chủng tử gây ra sự liên tục theo mô hình trong khi không ngừng được xóa bỏ và sinh ra thì đúng với nghĩa của chủng tử sinh ra chủng tử. chúng ta đã mô tả khía cạnh của sự duy trì tương tục một loại mô hình chất lượng đơn giản, nhưng đây chỉ là một đặc tính khía cạnh của A-lại-da thức như là bản chất. Từ khía cạnh chức năng, A-lại-da có đặc điểm như là chủng tử sinh ra chủng tử. Như thế sự tương quan giữa A-lại-da thức và chủng tử có thể được mô tả như sự tương quan giữa bản chất và chức năng – ngoài chủng tử ra, không có gì trong A-lại-da thức chúng ta có thể nói đến.

Điều này làm sáng tỏ vấn đề là vì chủng tử sinh ra chủng tử theo cách này, thật là ngu dại khi nghĩ là những chủng tử được gieo trồng bởi hành động, thái độ, và những kinh nghiệm quá khứ sẽ tự nhiên phai mờ với thời gian. Quá khứ là thứ chúng ta không thể trốn thoát được. Chúng ta, dù gì chăng nữa, cũng chỉ là vật chứa quá khứ mà thôi.

Bằng cách tỉnh giác bén nhậy tiến trình tâm thuộc chủng tử sinh ra hiện hành, hiện hành huân tập chủng tử và chủng tử sinh ra chủng tử, chúng ta có thể bắt đầu ứng xử tùy thuận và khởi sự sống theo Duy Thức. Điều này đòi hỏi sự chú tâm liên tục tới sự kiện là hành động của chúng ta tiến triển qua tiến trình của ba nghiệp thân, khẩu, và ý, và mỗi ý nghĩ thoáng qua tâm chúng ta sẽ có liên quan đến tương lai.

CHỦNG TỬ CÂU SINH VÀ MỚI ĐƯỢC HUÂN TẬP

Những hiện hành được sinh ra từ chủng tử có một quả duy nhất rõ ràng, và những hiện hành xuất hiện như quả trên bề mặt có nội dung phẩm chất luân lý có thể rõ ràng nhận thấy được. Đời sống thường ngày của chúng ta được tạo thành bởi những hiện hành tăng trưởng như thế và phát triển theo cách khác nhau.

Chủng tử là một cách mô tả năng lực từ nhân tạo ra quả. Vì những chủng tử hiện diện trong điều kiện ngủ ngầm, chưa hiển lộ, và là kết quả của sự huân tập từ vô thủy, chúng ta không có cách nào để nhận thức được nội dung. Vì không thể hiểu biết được, chúng ta không thể quan sát hay đánh giá. Vì người ta không thể hiểu biết được, có nghĩa rõ ràng là không có gì để chúng ta có thể xử lý – mặc dù vai trò hàng đầu của chủng tử là nguyên nhân phát sinh ra tất cả hiện tượng.

Điều này có nghĩa là nếu tôi muốn từ ngày mai tôi sẽ sống theo lối sống của đạo Phật, tôi không có một sự trông cậy nào khác ngoài sự bắt đầu với những chủng tử không thể hiểu được này, ngoài những hiện hành là hậu quả hiển nhiên. Ta sẵn sàng quán chiếu những hiện hành của mình trong khi nhận sự phê phán của người khác và y cứ trên đó để có những thái độ mới. Sự tiến hành từ từ này cho chúng ta cơ hội tự quan sát trong phạm vi hoạt động hiện hành.

Tuy nhiên hoạt động hiện hành là một điều gì có đặc điểm gián đoạn; điều này có nghĩa là dù chúng ta quan sát hiện hành của chúng ta cẩn thận đến đâu, chúng ta cũng không thể nào biết được phương cách đích thực của sự hiện hữu của chính mình bằng chỉ một cách này không thôi.

Chủng tử vừa tạo nên hình tướng chính cho cuộc đời chúng ta vừa phục vụ như một hậu thuẫn cho hình tướng đó. Những quá trình tương tác chính là việc chủng tử phát sinh hiện hành và hiện hành huân tập chủng tử. Nhưng về vấn đề gây nên những sự thay đổi trong chúng ta, chúng ta cần phải hết sức chú ý đến tiến trình lưu giữ sự tương tục và nhất thể, đó là cơ cấu việc chủng tử phát sinh chủng tử. Khi thảo luận về đặc tính của con người, hay tính khí căn bản, chúng ta cần học được cách vượt qua hiện hành bên ngoài và phải lưu tâm tới những chủng tử tiềm ẩn, chưa hiện hành. Nếu không, chúng ta không thể nào hiểu được người ấy một cách toàn diện.

Hiện hành chỉ là thái độ cấu tạo bởi những hành động riêng rẽ. Những hiện hành riêng rẽ của một người kết hợp thành một tổng thể hòa hợp là phạm vi trong đó những hiện hành “có vẻ giống như người đó” hay phản ánh tiềm lực của người đó. Nếu chúng ta bỏ quên khía cạnh này, sự hiểu biết người đó ngay cả khi quán sát chính xác những hành động riêng rẽ hiện rõ, và ăn khớp với những gì người đó thực sự đang là trong tổng thể của mình, cũng phải khác trong cuộc phân tích cuối cùng. Để tiếp cận được khía cạnh thực sự của một người, ta cần phải chú ý hết sức đến những chủng tử, hay thức A-lạida, mặc dù khó thể nhận thức được.

Những yếu tố tạo nên tổng thể của cá tính con người thường nhận ra được – trong tất cả mọi thời đại và mọi nền văn hóa – nơi điều gì vốn sẵn có và đã được huân tập. Như thế, khi thảo luận về cá tính con người, chúng ta thường nói đến “bản tính” của ông ta hay bà ta.

Khi nói đến cố hữu chúng ta muốn nói đến một điều có sẵn khi chúng ta được sinh ra và không dễ dàng thay đổi – không thể do giáo dục hay huấn luyện. Khác với cố hữu, những gì được huân tập sẽ hội nhập sau khi chúng ta được sinh ra, như ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình hay tiêu chuẩn xã hội bắt rễ trong chúng ta; hay những điều sở đắc qua chăm chỉ và cố gắng.

Những thuyết về tâm lý đối với sự thành lập nhân cách đã tỏ ra có khuynh hướng thiên về một trong hai đường (ví dụ cuộc thảo luận vượt thời gian về tự nhiên (nature) đối lại với nuôi dưỡng (nurture). Ngày nay, dường như người ta thường hiểu là nhân cách hình thành xảy ra qua một tiến trình liên hệ năng động những ảnh hưởng hỗ tương giữa cái cố hữu hay bẩm sinh và cái được huân tập.  

Trong lý thuyết về chủng tử Duy Thức học giới thiệu một cách phân loại giống mô hình tự nhiên đối lại nuôi dưỡng. Đây là sự phân chia giữa chủng tử câu sinh (tức đã có mặt từ trước) và chủng tử mới được huân tập. Ý niệm về chủng tử câu sinh diễn tả tiềm năng sinh ra tất cả các pháp một cách tự nhiên bao gồm quá khứ vô thủy trong A-lại-da thức. Vì từ cố hữu biểu lộ nét riêng biệt căn bản, những chủng tử câu sinh có thể xem như tương tự với ý niệm về một khuynh hướng bẩm sinh. Tuy nhiên, vì có tính “vốn xưa nay, từ quá khứ vô thủy” nên đây là điều quan trọng với ý nghĩa phức tạp hơn là chỉ đơn thuần có nghĩa bẩm sinh hay câu sinh, trong bài giảng về tâm lý ngày nay.

Những chủng tử mới được huân tập là những chủng tử không có mặt trong thân và tâm ngay từ đầu khi chúng ta sinh ra. Đó là những dấu ấn-khuynh hướng mới được gieo trồng từ những hiện hành khác nhau. Trên bình diện phân loại những yếu tố tạo ra nhân cách thành yếu tố “huân tập” và “cố hữu,” những chủng tử mới được huân tập là những chủng tử mới có. Vì sự huân tập đã tiếp tục từ vô thủy, những chủng tử mới huân tập có thể xem như nằm trong loại câu sinh.

Những người so sánh khoa tâm lý hiện đại với Duy Thức học thường nói là những chủng tử câu sinh giống như bản chất bẩm sinh trong khi những chủng tử mới huân tập thì giống như mới tạo thành có điều kiện. Trong Duy Thức, tuy nhiên, sự khác biệt rõ ràng giữa sự bẩm sinh hay mới có sau này không chỉ đơn giản là vấn đề có bẩm sinh hay không, mà là vấn đề chủng tử đã tự nhiên tích lũy hay không trong nền tảng hiện hữu của chúng ta từ vô thủy .

Người ta nghĩ rằng đặc tính bẩm sinh và những đặc tính không bẩm sinh mới được huân tập sẽ sản sinh ra tất cả các pháp dựa trên mối liên hệ hỗ tương dẫn đến thực tại của đời sống chúng ta. Trong khi xem như sự khác biệt này là giả tạo, thực sự nhận diện những chủng tử khác biệt là cả một vấn đề.

Chúng ta có thể nói là, theo nghĩa tổng quát, những chủng tử câu sinh được trang bị cho cái “ngã” ngay từ đầu, và chủng tử mới được huân tập thì mới được gieo vào A-lại-da thức y cứ trên những sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, nhưng thật ra không thể nào phân biệt được một cách cụ thể chủng tử nào là câu sinh và chủng tử nào là mới được huân tập. Chỉ có chư Phật mới có khả năng phân biệt được điều này.

Thay vì bận tâm về vấn đề này, sẽ có ích hơn khi chúng ta để hết tâm ý quán chiếu hành động và thái độ của mình hằng ngày đang gieo trồng những chủng tử mới được huân tập vào A-lại-da thức như thế nào. Vì thế ở đây, một lần nữa, chúng ta trở lại chú ý đến hiện hành. Chỉ quan tâm đến hiện hành ra ngoài và thái độ có ảnh hưởng đến sự phát sinh chủng tử thì không ích lợi gì (và có thể tai hại nữa); đúng hơn, nên xem những thái độ biểu hiện là nhân để huân tập chủng tử mang lại ảnh hưởng đến tất cả những hành động và thái độ sau này cũng như toàn thể tương lai của chúng ta.

Đặc tính của thời điểm như thế trong mối liên hệ giữa hiện hành và những chủng tử mới được huân tập được diễn tả một cách khéo léo trong một đoạn ngắn sau đây trong Tale of the vegetable Roots (1602) của Hong Zicheng vào thời nhà Minh. Đoạn này phản ảnh những yếu đuối của con người bị thoái hóa sau khi đã dần dần đạt tới một mức độ nào đó.

Khi ham muốn bạn không nên thọc tay vào nồi để nếm thử. Một khi thọc tay vào nồi rồi, bạn sẽ bị rơi xuống vực sâu ngàn dặm. Trên đường tu tập, phải cảnh giác không chần chừ và lùi bước. Khi lùi một bước, bạn sẽ bị tụt lui lại một quãng xa bằng ngàn ngọn núi.

Usaburo Imai giảng giải câu này như sau:

Đừng nhất thời đưa tay ra nghĩ rằng mình có thể dễ dàng tóm lấy dịp may để thỏa mãn thú vui. Tóm được một lần, cuối cùng bạn sẽ rơi xuống hố sâu ngàn dặm (nói một cách khác, một khi bạn nếm được mùi vị và nhớ mãi vị đó, bạn sẽ bị chết đuối trong đó.) (Trái lại), trên đường tu tập, ngay cả khi bạn thấy khó khăn và chán nản, đừng thụt lui một giây phút nào. Nếu bạn thụt lui một lần, cuối cùng bạn sẽ bị ngăn cách bởi cả ngàn ngọn núi mà không bao giờ bắt kịp, bởi vì khi thấy công việc chán nản, sẽ chán nản hơn.

Ai là người không đồng ý về điểm này?

Chúng ta có khuynh hướng, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chọn lối thoát dễ nhất. Cứ tiếp tục làm như thế, chúng ta sẽ tạo thành thói quen. Cuối cùng, khi nhận ra, chúng ta thấy rằng không nên như thế, và tâm hành hối xuất hiện. Đây có phải là cách sống đích thực nhất của chúng ta không? Tuy vậy, ngay cả khi biết mình không nên làm những điều thế này thế kia, chúng ta vẫn trượt trở lại lối cũ dễ dàng. Trong khi người ta có thể luôn luôn viện cớ là chúng tôi “chỉ là con người,” tỉnh giác do Duy Thức học mang lại sẽ giúp chúng ta khỏi bị sa lầy trong thú vui và sự dễ dãi.

SÁU Ý NGHĨA CỦA CHỦNG TỬ

Bây giờ như chúng ta đã biết, quan điểm của Duy Thức là hai quá trình của chủng tử và hiện hành, trong khi hành động như nhân quả hỗ tương, sinh ra tất cả các tướng trạng, sự cố, và hành động. Cuộc sống hằng ngày của chúng ta xoay quanh một chuỗi những chủng tử phát sinh hiện hành và hiện hành huân tập chủng tử.

Khi suy nghĩ về sự kiện mỗi hành động của chúng ta trong đời sống hằng ngày huân tập những dấu ấn vào tận phần sâu xa nhất của tâm, và những dấu ấn này được tích lũy như một năng lực tiềm ẩn dành cho sự sản sinh các pháp sau này, chúng ta không nên hành động một cách bất cẩn.

Mặt khác điều này không nên xem như duyên cớ để không làm gì cả. Chúng ta có chánh niệm nhiều hơn để giương cung về hồng tâm ở đàng xa. Ở mức phân tích cuối cùng, điều quan trọng nhất là có một mục tiêu. Khi nghiên cứu về kinh Duy Ma Cật, tiến sĩ Hashimoto có nói: “Mục tiêu là điểm tập hợp tất cả những năng lực mà con người có.” Vì đây là cách diễn tả chính kinh nghiệm của ông khi kéo cung, không phải chỉ là chơi chữ. Ông còn nói: “Mỗi người nên có một mục tiêu.” Không có gì quan trọng khi gọi đó là mục tiêu, mục đích. Trong cuộc sống, nếu ta có mục đích, và ta nhắm vào mục đích từ xa, bất cứ ai đều cố gắng đạt lấy mục đích.

SÁU Ý NGHĨA

Người hiểu những chủng tử tiêu biểu cho tiềm năng trong tám thức để tạo ra quả hoạt động theo sự điều khiển bởi sáu nhân khác nhau. Đó là:

  • năng tác nhân,
  • câu hữu nhân,
  • Tương ưng nhân;
  • đồng loại nhân, 5- Biến hành nhân, 6- Dị thục nhân.

Đây là sáu nhân của chủng tử. Chúng ta cần dừng ở đây và nói về ý nghĩa mỗi đặc tính, theo sự giải thích những chủng tử đưa ra ở trên.

  • Năng tác nhân là những nhân tiêu biểu cho năng lực tiềm tàng phát sinh các pháp, sinh ra, trụ lại, và thay đổi liên tục.

Nếu trong trường hợp mà nhân tồn tại mãi và không thay đổi, việc tạo ra quả không thể nào có được. Sự kiện là nhân không thể nào tồn tại hoài và không thay đổi, mà phải sinh ra, trụ lại, và thay đổi từng phút giây là ý nghĩa của Năng tác nhân.

Sau đây chúng ta đi sang điều kiện nhân quả xảy ra đồng thời như là một khía cạnh của nhân và quả trong việc phát sinh các pháp, đó là sự liên hệ giữa chủng tử và hiện hành. Đó là ý nghĩa của

  • câu hữu nhân. Có nghĩa là các nhân, hay chủng tử, là nguyên nhân gây ra các pháp, đồng thời chứa đựng quả trong hiện hành. Ý niệm này đã được đề cập tới trong vài chi tiết từ bình diện của ba hiện tượng nối tiếp nhau sinh ra nhân quả đồng thời trong phần chủng tử phát sinh hiện hànhhiện hành huân tập chủng tử.
  • Tương ưng nhân: Ý nghĩa của việc hoàn thành chức năng cùng với thức thích hợp là những nhân hay chủng tử có chức năng tương tục không gián đoạn, và tạo ra sự liên tục cùng chất lượng mà không làm biến đổi. Nếu chúng ta hiểu là nhân biến mất trước khi tạo ra quả mong muốn thì đã mất hết ý nghĩa của nhân. Để hoàn thành chức năng là năng lực tạo ra các pháp, nhân hay chủng tử không thể là những thứ dễ dàng biến mất, mà phải tương tục không gián đoạn. Chủng tử mang lại sự tương tục cho một loại nào đó trong một thời gian dài, sẽ hành động như chủng tử sinh ra chủng tử, đã được thảo luận nhiều ở trên. Khi nói “trong thời gian dài” ở đây, chúng ta đang thảo luận về khoảng thời gian kéo dài cho tới khi đạt được giai đoạn giác ngộ cuối cùng, điều này sẽ thảo luận trong chương 10.
  • Đồng loại nhân: Có cùng tính chất nghiệp khi hiện hành có nghĩa là chủng tử có cùng tính chất với hiện hành đã tạo ra. Nói cách khác, chủng tử tốt sinh ra hiện hành tốt. Như thế, chủng tử có cùng tính chất với hiện hành có nghĩa là đặc tính của một hành vi hay tướng trạng tự động phản ảnh lại theo tính chất tạo nghiệp trên mặt luân lý là tốt, không tốt, hay bất định của chủng tử đã tạo ra.

Chúng ta lại dùng chủng tử như ẩn dụ để chỉ tiềm năng sinh ra mỗi pháp, và chúng ta đã nhiều lần mô tả là tiềm năng trong tám thức để tạo ra quả.

Tuy nhiên, trong thực tế, sự thành lập các pháp không phải chỉ trực tiếp do các chủng tử này mà thôi. Để các pháp có thể xuất hiện, nhiều nhân duyên khác nhau cần phải có mặt. Đây là ý nghĩa của nhân thứ năm

  • Biến hành nhân: nhân chỉ phát sinh ra hiện hành khi những nhân phụ cần thiết cũng phải có mặt. Điều này khẳng định rằng các pháp phải chờ đợi vô số nhân duyên cùng góp mặt mới xuất hiện.

Cuối cùng, 6- Dị thục nhân: xác định rằng một nhân sinh ra một quả đặc biệt, không sinh ra loại quả nào khác, nghĩa là những nhân tự nhiên sinh ra quả đồng nhất với đặc tính của chúng.

Thoạt nhìn, nghĩa của số (4) và (6) thì khó phân biệt, nhưng vẫn đề cập hai khía cạnh khác nhau. Ở số (4), có cùng tính chất nghiệp khi hiện hành, vấn đề ở chỗ đặc tính nghiệp hay đạo đức của nhân. Trong nhân số (6), sự sinh ra quả riêng biệt, không có quả loại khác, vấn đề là chủng loại.

Chúng ta có khuynh hướng kết luận là nói đến các pháp như thể chúng chỉ là một loạt đồ vật, nhưng tất cả hiện tượng được sinh ra do nhân và duyên (được biết đến như là các pháp hữu vi) có thể xếp một cách tổng quát thành ba nhóm gồm:

  • tâm pháp (bao gồm tâm vương và các tâm sở),
  • sắc pháp
  • các pháp không thuộc vào hai loại trên (gọi là những yếu tố không trực tiếp thuộc về tâm như thời gian, phương hướng, số lượng v.v.).

Theo nghĩa tổng quát, nói rằng chủng tử là nguyên nhân sinh ra tất cả các pháp thì không được chính xác. Tuy nhiên, nói một cách cụ thể, ta hiểu rằng các hiện tượng vật chất được sinh ra từ sắc pháp, và các hiện tượng tâm lý được sinh ra từ tâm pháp.

Đó là ý nghĩa của mỗi chủng tử sinh ra quả đặc biệt, mà không sinh một loại nào khác. Từ những pháp hữu vi này, đời sống hằng ngày của chúng ta được hình thành. Khi chúng ta xem xét mỗi chủng tử sinh ra một quả đặc biệt, mà không sinh một loại nào khác, chúng ta chứng tỏ rằng cái “ngã” không thể được tạo nên chỉ y cứ trên một loại nhân đơn thuần. Bất cứ một hiện tượng nào mà không thể xác định bởi tất cả 6 loại nhân trên thì không thể là chủng tử được.

Trong sáu ý nghĩa của chủng tử này, tôi muốn nhấn mạnh ở đây tầm quan trọng đặc biệt của hai ý nghĩa là nhân chỉ phát sinh ra hiện hành khi những nhân phụ cần thiết cũng phải có mặt một nhân sinh ra một quả đặc biệt, không sinh ra loại quả nào khác. Điều này đòi hỏi chúng ta xem lại phần bốn nhân duyên. Ngay từ đầu, Phật Giáo chú trọng nhiều đến vấn đề nhân và quả, và trong ý niệm nhân quả này, Phật giáo đặc biệt nhấn mạnh đến ý niệm luật nhân quả qua vô số nhân và duyên.

Nói cách khác, không thể nào nghĩ rằng tất cả các pháp tạo thành đời sống thực sự hằng ngày của chúng ta xuất hiện tự nhiên và không có lý do xác đáng. Đúng ra, chính trong sự kết hợp đầy năng lực của muôn vàn nhân và duyên mà các pháp xuất hiện, trong lúc chúng ta xoay sở cuộc đời mình. Phật giáo cho rằng cách suy nghĩ này là cơ bản, và tiếp cận này đã được soi sáng và khai triển chính xác hơn nhiều bởi những khái niệm của Duy Thức là nhân chỉ phát sinh ra hiện hành khi những nhân phụ cần thiết cũng phải có mặt một nhân sinh ra một quả đặc biệt, không sinh ra loại quả nào khác.

 Video: Trích đoạn

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *