Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

Chương Tám: Chức Năng của Tiền Ngũ Thức

SỰ NHẬN THỨC TRONG TIỀN NGŨ THỨC

Trong phạm vi tâm vương của tám thức, sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức,ý thức) là những thức nhận biết đối tượng. Sở dĩ như thế vì sáu thức này, ngược lại với A-lại-da thứcMạt-na thức, có khả năng nhận thức và phân biệt đối tượng nhận thức. Và chức năng biến đổi đối tượng nhận thức, và đây là chủ thể biến hiện thứ ba.

Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu năm thức, thường gọi là tiền ngũ thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, và thân thức lần lượt tương ứng với cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, và xúc chạm. So với ý thức, hành trạng những thức này tương đối đơn giản. Cùng hoạt động với nhau và thường được xem là tiền ngũ thức, tiền ngũ thức là một chuyên mục tổng quát cho chức năng của năm giác quan.

Mỗi tiền ngũ thức nhận thức riêng từng đối tượng tương ứng: sắc, thanh, hương, vị, và xúc. Nhãn thức thấy được màu sắc, hình dáng, và điều kiện của vật; nhĩ thức nghe được những âm thanh khác nhau; tỷ thức ngửi được sự khác nhau giữa mùi thơm dễ chịu và mùi hôi; thiệt thức nếm được vị những món được bỏ vào miệng, phân biệt là đắng hay ngọt, và thân thức nhận định sự vật chạm phải làn da là lạnh, ấm, mềm, cứng, ướt hay khô. Những thức cảm giác này chỉ nhận biết được đối tượng riêng biệt.

Chức năng căn bản của tiền ngũ thức là nhận biết đối tượng như đang là. Không có thêm một sự giải thích về ngôn ngữ vào đây như: “đây là một bông hoa” hay “đây là một quang cảnh tuyệt vời.” Tiền ngũ thức chỉ nhận biết sự vật khi trực tiếp cảm nhận, không có một quan niệm nào thêm thắt. Loại nhận thức này được gọi là nhận thức trực tiếp.

Theo các nhà luận thuyết Phật Giáo thông thường có ba cách để nhận thức sự việc: (1) nhận thức trực tiếp sự vật không sai chạy (hiện lượng); (2) nhận thức sự vật qua liên hệ lý luận, như phân biệt và so sánh (tỷ lượng) và; (3) nhận thức sai lạc (phi lượng), ám chỉ chức năng sai sót của một trong hai nhận thức trên. Tiền ngũ thứcthức thứ tám chỉ vận hành với nhận thức trực tiếp, trong khi thức thứ bảy vận hành với nhận thức sai lạc.

Vị trí của thức thứ sáu thì dĩ nhiên phức tạp hơn, vì chức năng căn bản là trước tiên ức đoán một cách ngẫu nhiên về mỗi sự vật và đào sâu sự nhận biết song song với xem xét và so sánh, vì thế thường sai lầm. Và vì ý thức cũng vận hành qua sự nhận thức trực tiếp, điều này có nghĩa là hoạt động qua đủ ba cách hiện lượng, tỷ lượng phi lượng. Khi so sánh với lĩnh vực chức năng rộng lớn của thức thứ sáu, tiền ngũ thức vận hành tương đối đơn giản.

Nét đặc trưng thứ hai của tiền ngũ thức là chỉ nhận biết đối tượng hiện đang có mặt, và bị giới hạn bởi hiện cảnh. Tiền ngũ thức không thể trở lại quá khứ hay ngẫm nghĩ về tương lai như ý thức. Tiền ngũ thức không thể làm gì khác ngoài việc cảm nhận đối tượng hiện diện trước mặt. Nếu chúng ta nhắm mắt lại, nhãn thức ngưng hoạt động. Những sự gián đoạn tạo nên một đặc tính nổi bật của tiền ngũ thức.

tiền ngũ thức là sự nhận biết của giác quan, chức năng phân biệt đối tượng được thực hiện qua giác quan riêng biệt. Giác quan này được gọi là “căn” có nghĩa là sở hữu sức sáng tạo, đó là một ẩn dụ do so sánh với năng lực của gốc rễ, làm cho cây cối tăng trưởng và truyền sức sống lên thân và cành.

Tiền ngũ thức xem như nền tảng hỗ trợ năm căn, và qua năm căn tiếp xúc trực tiếp với đối tượng tương ứng. Giác quan hay căn, được xem là sở hữu không những khả năng tiếp thu tiêu cực mà quan trọng hơn, có thể sinh ra năng lực tương tự như rễ cây. Y cứ trên nhãn căn như gốc rễ, nhãn thức có thể vận hành một cách khéo léo để nhận thức những đối tượng vật chất.

Duy Thức phân tích cho thấy rõ là những căn này được phân biệt thành hai khía cạnh, giác quan vật lý và những khả năng cảm nhận siêu vật lý. Giác quan vật lý bao hàm những giác quan chạm và thấy được là mắt, tai, mũi, lưỡi và da, trong khi khả năng cảm nhận siêu vật lý là năng lực cảm nhận nằm trong giác quan.

Chúng ta được sinh ra với những căn, là những khả năng đặc biệt và duy nhất nơi mỗi chúng sinh. Thí dụ như khả năng ngửi của loài chó khoảng 6,000 lần mạnh hơn loài người. Trong khi đi dạo với chủ trên cùng một con đường, đối với mức độ nhận thức cảnh giới qua tỷ thức của chó thì chủ nó không thể nào so sánh được. Khi so sánh, khả năng ngửi của chúng ta bị giới hạn một cách thảm hại trong việc hiển lộ đặc tính của bất cứ đối tượng nào dựa vào mùi hương. Chức năng giác quan được xếp vào loại nhận thức trực tiếp, hiện lượng, như đang là, nhưng đương nhiên có những giới hạn trong tiền ngũ thức tùy theo điều kiện sinh học.

Chúng ta, ngay từ ban đầu, là những chúng sinh bị giới hạn trong điều kiện sinh học. Chúng ta không thấy được tia tử ngoại và hồng ngoại bằng mắt thường, mặc dù sự thật là hai tia này chắc chắc ở khắp nơi chung quanh chúng ta. Tâm của nhãn thức không thể làm gì khác hơn là hạn định ranh giới cho màu sắc và hình dáng, và trong phạm vi của ranh giới ấy nhận thức, qua hiện lượng, đối tượng thuộc lãnh vực thị giác.

Ngay cả trong những người cùng chủng tộc, có người có thể phát hiện ra những khác biệt vô cùng vi tế trong nốt nhạc thang âm, và có người hoàn toàn không có khả năng nhận biết bén nhạy như thế. Ngay cả khi cùng nốt nhạc dạo trên phím dương cầm, tùy theo điều kiện cảm quan đặc thù của thính giả, đối tượng âm thanh không giống nhau. Như thế tiền ngũ thức, tùy theo điều kiện sinh học khác nhau của năm giác quan, trước tiên đảm nhận sự chuyển biến năm đối tượng.

TIỀN NGŨ THỨC VÀ THỨC THỨ SÁU

Giờ đây chúng ta đã nhận ra một cách khái quát vài đặc tính của tiền ngũ thức. Tuy nhiên, một đặc tính quan trọng nhất là vận hành theo sau thức thứ sáu mà không thể tự vận hành độc lập.

Nếu những ảnh hưởng của việc này xem xét từ bình diện của tiền ngũ thức, chúng ta sẽ thấy là năm giác quan bị ảnh hưởng mạnh mẽ của ý thức. Lấy chức năng của nhãn thức làm thí dụ, chúng ta cho là mình thấy quang cảnh trải dài trước mắt như đang là, và không có thêm gì khác để nhìn. Nhưng chức năng thực sự nhìn thấy sự vật không đơn giản như thế. Ý thức trực tiếp can dự vào, và nhãn thức dưới ảnh hưởng của ý thức sẽ biến đổi đối tượng nhìn thấy.

Có một thí dụ rất thú vị về vụ in thạch bản, người ta đặt một tấm giấy thông thảo lên trên một miếng đá lát rồi lấy chiếc khăn ướt đè tấm giấy xuống để dính sát vào miếng đá lát. Sau đó khi tấm giấy đã hơi khô, lấy một cái trục bôi mực Ấn Độ gõ nhẹ lên giấy và vết hằn trên đá lát được sao lại trên tấm giấy. Kết quả là tác phẩm nghệ thuật có một dạng rất thú vị, và khi học được kỹ thuật này nhiều người mê thích xem như trò tiêu khiển, muốn in bất cứ thứ gì họ thấy là có bề mặt gồ ghề.

Khi thạch bản đã được in ra, người ta cảm thấy như là vật in xuất hiện trước mắt từ mặt kia của tờ giấy. Sở dĩ như thế vì cho tới lúc người ta học được kỹ thuật in, phần lớn sự vật người ta thấy đã bị thức biến y cứ trên nền tảng của thị trường đã huân tập, và kết quả là những khía cạnh quan trọng khác của đối tượng đã bị bỏ sót không ghi nhận. Vì kết quả của thức biến đã  duyệt lại quá nổi bật, bỗng nhiên chúng ta chú ý và hăng hái trở lại việc nhận thức giác quan của chúng ta. Theo cách này, tiền ngũ thức của chức năng giác quan cũng có thể biến đổi đối tượng của chúng.

Chúng ta cũng nên lưu ý là vì tiền ngũ thức thuộc về giác quan, nên không thể phân biệt thiện và ác trên mặt luân lý về nghiệp. Tuy nhiên, vì đây là trường hợp tiền ngũ thức vận hành theo sau ý thức, nên không thể nào tránh khỏi ảnh hưởng của ý thức vào lúc đó, và như thế tiền ngũ thức có thể trở nên thiện, ác hay bất định trong tính chất tạo nghiệp trên mặt luân lý.

Khi chúng ta khởi lên tâm sở tham trên mặt ý thức, chức năng của tiền ngũ thức bị ảnh hưởng mạnh mẽ, và tiếp nhận đặc tính đó. Điều này được minh chứng rõ nhất trong thành ngữ “nhìn vật gì đó với lòng tham lớn,” chúng ta có thể giải thích là nhãn thức bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi thức thứ sáu, và đặc tính này truyền vào nhãn căn là quan năng dung chứa thức này.

Để kết luận, những chức năng tâm lý của tiền ngũ thức gồm có: năm tâm sở biến hành, năm tâm sở biệt cảnh, mười một tâm sở thiện, ba tâm sở tham, sân, si của phiền não chính, mười tâm sở vô tàm, vô quý, tán loạn, phóng dật, bất tín, giải đãi, trạo cử, thất niệm, tán loạn và bất chánh tri của những tâm sở tùy phiền não, tổng cộng là ba mươi tư chức năng.

 Video: Trích đoạn

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *