Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Kết Luận: Duy Thức Ngày Nay
ĐÁNH THỨC CHÂN TÁNH CỦA Y THA
Qua mười chương, chúng ta đã xong việc mô tả ngắn gọn về cấu tạo và chức năng của tâm chúng ta, đã học hỏi được nhiều về cơ cấu của tâm theo Duy Thức Học Phật Giáo giảng giải. Như thế, chúng ta đã liên tục nhấn mạnh khía cạnh ứng dụng Duy Thức Học vào đời sống hằng ngày. Nhưng ngoài những chỉ dẫn đơn thuần về lý thuyết, hay giảng giải những thuật ngữ, chúng ta đã không ngừng cố gắng chứng tỏ cách thức làm sao mang lại lợi lạc cho đời sống hằng ngày khi ứng dụng những nguyên tắc này.
Trong việc quan sát tâm theo giáo lý Duy Thức, chúng ta có thể đặt câu hỏi về thực tại trong việc tự hiểu mình là một con người sống đời thường ngày. Chúng ta phải công nhận đây không phải là “thực tại” chút nào mà có vẻ như rất xa với bất cứ thứ gì được xem là “thực.”
Nhưng ở đoạn cuối này, Duy Thức nhấn mạnh sự kiện nội dung nhận thức của chúng ta khởi lên tùy thuộc vào A-lại-da thức, sau đó còn phải chịu ba lớp biến đổi rõ rệt. Chúng ta có thể không gần gũi với những ý niệm lý tưởng của Phật Giáo là “biết chính mình như thật sự đang là” hay “nhận biết sự vật chung quanh chúng ta như thực sự đang là.” Thật ra, chúng ta chỉ có thể sống gần giống với thực tại.
Thế giới nhận thức một cách sai lạc này được nhận diện theo tánh biến kế chấp trong ba tánh. Tất cả các pháp, kể cả chính chúng ta, sinh ra từ kết quả giả hợp những yếu tố khác nhau trong một số điều kiện nào đó. Và tuy rằng những yếu tố này có vẻ hiện hữu trong một trạng thái thường hằng, thật sự lại liên tục thay đổi. Tuy rằng thế giới hiện tượng do duyên sinh và không ngừng thay đổi, trong đó chúng ta sinh sống, từ căn bản phụ thuộc tánh y tha khởi, chúng ta vô tình cho đó là một điều gì có thực chất bền vững.
Ngoài ra chúng ta không ngừng tham muốn những thứ thích hợp và chán ghét những thứ không thích hợp, và cuối cùng, chúng ta chấp chặt vào những cảm thọ chán ghét. Đây là thế giới của biến kế sở chấp, là tình trạng chúng ta thật sự đang sống.
Những người trong chúng ta đã học được tình trạng thực sự của sự nhận thức và chấp dính của chúng ta thì không hài lòng với việc chỉ đơn thuần theo đuổi một vài cách tu tập thứ yếu, nhưng thay vào đó lại ước muốn cởi bỏ sạch hết biến kế sở chấp. Chúng ta chỉ có thể giác ngộ tính y tha khởi của những hiện tượng nhất thời được tạo ra theo sự kết hợp những điều kiện khác nhau, luôn luôn thay đổi sinh diệt tiếp nối nhau. Tuy rằng bản chất của tính y tha khởi không gì khác hơn là viên thành thật tính, Phật giáo dạy rằng thế giới thật sự sẽ hoàn toàn hiển lộ một khi ta tỉnh thức sâu xa về tánh không của các pháp.
Điều tối quan trọng là kiên quyết tập một thói quen duy trì tỉnh giác rằng tất cả các pháp, kể cả chính mình, không phải là những thực thể thường hằng, mà đang ở trong một trạng thái luôn luôn biến dịch. Khởi đầu loại thực tập này không đơn giản như thế. Nhưng khi tu tập tỉnh giác, giờ đây chúng ta đang có, chúng ta nhận ra kiểu nhận thức hiện thời của mình có vẻ khác với “sự thật” hay “thực tại,” và từ đó, chúng ta cần đào sâu thêm việc tự quán chiếu. Nếu tinh chuyên thực hành, tấm màn biến kế sở chấp cực kỳ gan lì sẽ dần dần được tháo gỡ, giống như lột bỏ một lớp da mỏng.
DUY THỨC HỌC VÀ KHOA HỌC ĐỜI SỐNG
Trong những năm gần đây, khoa học đời sống đã tiến bộ mau lẹ, và những điều trước đây được xem là thuộc lĩnh vực của riêng Thượng Đế đã được vén màn và giải thích hết điều này đến điều kia. Chúng ta không ngớt sửng sốt trước thế giới khoa học phức tạp chung quanh chúng ta, và không có gì là không tương hợp với Phật giáo cả. Trái lại, cả hai đều đồng ý lập trường căn bản là con người không sở hữu một loại uy thế hay vinh dự nào, thay vào đó, con người có đặc tính căn bản chỉ là một loại chúng sinh sống giữa thiên nhiên.
Với sự nghiên cứu đang hiện hành về di truyền học và biểu đồ đầy đủ về bộ gien của con người, đã có thêm nhiều khuynh hướng cố gắng nối kết những khái niệm này với học thuyết của Duy Thức như chủng tử, hay A-lại-da thức. Những câu hỏi được đặt ra là có thể giải thích được bộ gien trên quan điểm của A-lại-da thức hay không, hay có phải là những bộ gien và chủng tử có thể xem như giống nhau. Hiện giờ, những câu hỏi như thế chưa đi quá phạm vi nói chuyện phiếm. Nhưng đối với những Phật tử sống trong một xã hội và đặc biệt quan tâm tới sự khoa học đời sống phát triển mau lẹ, tôi nghĩ rằng loại đối thoại này quan trọng. Tuy nhiên, có những Phật tử đi quá xa khi dứt khoát cho rằng theo quan điểm Duy Thức Học chủng tử là gien. Đây chắc chắn là một thái độ biện hộ xem lý thuyết Duy Thức như một điều hay tuyệt để cung cấp một sự giải thích về những khám phá khoa học tuyệt đỉnh và nên được đánh giá như thế. Nhưng không nên xem đây là trường hợp như thế.
Nếu những chủng tử thực sự tương đương với những gien thì A-lại-da thức nên được xem là toàn bộ gien, vì chính đó là thức chứa đựng tất cả những chủng tử. Chắc chắn là tâm sâu kín A-lại-da thức chiếm ba đối tượng nhận thức của mình là chủng tử, thân với các căn, và thế giới tự nhiên, làm của riêng. Trong những đối tượng này, thân với các căn là thân vật lý, và vì thế rõ ràng là A-lại-da thức ràng buộc chặt chẽ với thân. Trong khi nhiều người nói là tâm sâu kín A-lại-da thức liên hệ vô giới hạn với thân, ngay cả khi không có những xác nhận này, cũng phải công nhận rằng tâm sâu kín này là nền tảng tâm lý có liên hệ với thân.
Duy Thức học Phật Giáo lý luận rằng tất cả các nhân đều được tìm thấy trong phạm vi “thức biến” và các pháp rút gọn thành những “tâm sở.” Chừng nào chúng ta hiểu biết Duy Thức căn cứ trên điều này, chủng tử và các gien của con người không thể so sánh. Những gien của con người được truyền từ cha mẹ tới con cái, và căn bản là gồm những vật chất chứa tiềm năng điều khiển. Những gien vật lý không thể được xem tương đương với chủng tử của năng lực tâm lý huân tập những hành động của chúng ta vào tâm sâu kín của tàng thức.
Như chúng ta đã thấy nhiều lần, những hành động của chúng ta không bao giờ kết thúc hay hoàn tất. Năng lượng theo sau những hành động thiện hay bất thiện được huân tập vào A-lại-da thức và những chủng tử được thấm nhiễm vào tầng sâu trong tâm, dù có phiền phức cho cái ngã hiện thời tới đâu, cũng không phải là thứ có thể bị điều khiển dễ dàng được. Chính vì thế mà chúng ta nhận ra được rằng những chủng tử tạo ra nền tảng hành động của chúng ta, sẽ thấm nhiễm những tầng sâu kín trong tâm. Chủng tử hoàn toàn khác với mã di truyền của con người.
Đối với một Phật tử, đời sống không bắt đầu chỉ dựa trên sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ. Sinh thức thì cần thiết trong sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ, không có sinh thức thì không có đời sống. Sinh thức này không phải là cái gì khác hơn là A-lại-da thức.
Theo thuyết về luân hồi tái sinh, chúng ta có nhiều tiền kiếp. Vì không buông bỏ sự dính mắc vào đời sống ở kiếp trước, vào lúc chết, A-lại-da thức của chúng ta trở thành sinh thức và tự tách ra, tùy thuộc vào sự liên hợp thích ứng tiếp theo của hai giọt huyết và tinh. Đây là phút lâm chung giải thích theo Đạo Phật.
Trong phạm vi tư tưởng này, ngoại tướng của thân có thể được thừa hưởng từ tinh và trứng của cha mẹ. Nhưng bên trong thân, những chủng tử là nhân hiện hành, là điều gì đã thừa hưởng từ vô lượng kiếp trước. Một lần nữa chúng ta phủ nhận thuyết cho những gien truyền từ cha mẹ xuống con cái đồng với những chủng tử của Duy Thức Học. Chúng ta đối diện lý thuyết chủng tử với sự khác biệt giữa những chủng tử bẩm sinh và những chủng tử mới được huân tập, cũng như sự khác biệt giữa những chủng tử không bị nhiễm ô và những chủng tử bị nhiễm ô. Chắc là không ai sẽ bàn cãi về những gien có thể được chia thành những nhóm không nhiễm ô và bị nhiễm ô.
Phật tử sống trong những thời đại từ nay trở về sau sẽ tiếp tục thảo luận những khám phá tiên tiến trong các lãnh vực khoa học về đời sống. Nhưng nếu tạo ra những điều tương đương như thế dựa trên cảm giác có sự tương tự một cách hời hợt, chúng ta sẽ không hoàn thành được điều gì mà chỉ mang lại tình trạng rối ren không cần thiết. Thay vào đó, chúng ta nên giữ vững lập trường Duy Thức Học là rút gọn tất cả các pháp lại thành những tâm sở, quán sát những sai khác một cách kỹ lưỡng, và sau đó kiến lập những điểm tương đồng.
HÀNH ĐỘNG CÓ Ý THỨC VÀ ĐƯƠNG KIM THỜI ĐẠI
Duy Thức Học Phật giáo là một giáo lý tìm cách dò tìm tận nguồn gốc các pháp trong tầng sâu thẳm của tâm vô thức là A-lại-da thức – duyên sinh của A-lại-da thức. Tuy nhiên, cùng lúc đó hành động có ý thức của chúng ta huân tập những tầng sâu của tâm với những chủng tử mới, và như thế vấn đề hành động có ý thức là điểm cốt yếu trong Duy Thức Học. Tới mức độ nào đó, đây là một trong những lựa chọn duy nhất hướng đến giác ngộ.
Vì ý thức dễ bị ảnh hưởng của Mạt-na thức, tuy có thể có một ý định sáng suốt trong phạm vi ý thức để đạt ngộ, vẫn không thế nào tránh bị làm lệch hướng vì lòng vị kỷ và chấp ngã của Mạt-na thức. Nhưng chúng ta vô phương, và chỉ có thể cố gắng khích động sức tỉnh giác nơi mình và ý định mạnh mẽ của ý thức chúng ta.
Nhấn mạnh điểm này, các nhà Duy Thức Học nói: Chủng tử phát sinh hiện hành, hiện hành sinh ra chủng tử, hiện hành huân tập chủng tử; ba tiến trình lần lượt theo nhau tiếp nối với nhân và quả xảy ra đồng thời.
Đây là cơ chế của tâm chúng ta. Phát sinh ra hiện hành của chúng ta là chủng tử trong A-lại-da thức (chủng tử phát sinh ra hiện hành), trong khi cùng lúc đó, năng lực từ những hiện hành ấy được gieo trồng trở lại trong A-lại-da thức (hiện hành huân tập chủng tử). Sự biến đổi tức thời giữa chủng tử và hiện hành như là nhân và quả của nhau thì gọi là nhân quả đồng thời.
Và dịp may của chúng ta để tiến lên hay thoái hóa nằm trong phạm vi sự biến đổi vi tế ấy. Hiện hành của tâm thức này huân tập những chủng tử khác nhau vào tận lớp tâm sâu kín sẽ mang một ý nghĩa sâu xa, và chức năng của ý thức tham dự vào tiến trình này, dù vấn đề có vi tế tới đâu, vẫn không thể bỏ qua.
Nghiên cứu khoa học chứng tỏ rằng chúng ta kinh qua khoảng 60,000 ý nghĩ trong tâm mỗi ngày. Tuy nhiên, điều lý thú hơn là khoảng 95% ý nghĩ chúng ta đã có hôm qua. Có thể nói là chúng ta sống cuộc đời mình theo một cách trì trệ, thay đổi rất ít, nhưng nếu chúng ta thay đổi quan điểm và để ý tới sự kiện là 5% khác ngày hôm qua, lúc ấy tích lũy những hành động nhỏ bé sẽ mang ý nghĩa cơ bản và sâu xa. Vấn đề là, tuy vậy, ý nghĩa sâu xa của mỗi hành động có ý thức dần dần sẽ mất đi sự thích ứng trong một hoàn cảnh to lớn của xã hội chúng ta.
Xã hội tân tiến, trong việc tập trung tìm cầu nguồn lợi vật chất và tiện nghi, đã có thể tiến bước trên sự giàu có kinh tế, và dựa trên cuộc cách mạng công nghệ thông tin mới đây, đang tiến tới một xã hội đặt ưu tiên về năng suất lớn lao hơn. Nhờ thế, chúng ta có thông tin cập nhật mới nhất mà không phải rời căn nhà tiện nghi, và kết quả là đời sống hằng ngày của chúng ta tiện nghi hơn một cách vững vàng. Không phải quá đáng khi nói là mọi thứ đều được “nâng cấp” mỗi ngày, và bây giờ không biết giới hạn. Để theo kịp thời đại tiến bộ này, chúng ta phải sống chú trọng vào việc cập nhật hóa những tiến bộ mới. Nhưng điều này có cho phép chúng ta có thời gian suy nghĩ về những việc đã làm năm ngoái không, hay chỉ sáu tháng trước đây thôi? Hay là làm sao những chuỗi hành động của chúng ta lại đưa đến đúng hoàn cảnh này vào lúc này? Nếu bắt buộc phải diễn tả những ý nghĩa này một cách rõ ràng, nhiều người sẽ cảm thấy rất hoang mang. Khi chúng ta ngày càng tiến xa hơn, hành động của chúng ta trở nên tầm thường hơn, tới một mức mà những hành động của chúng ta dường như không có ý nghĩa, chẳng khác một tờ giấy bay chập chờn trong gió.
Thế giới chúng ta lúc nào cũng chuyển động. Sự biến chuyển kinh khủng của xã hội, y như chuyện trò trình diễn trên vô tuyến truyền hình, tẻ nhạt không ngừng và huyên thuyên rỗng tuếch, liên tục không một lúc nghỉ để lấy hơi. Không có một khoảng trống nhỏ nhất để im lặng một lát. Chẳng có gì ngoài những lời nói trào dâng như nước lũ, với thính giả cười “ha ha ha” mà không hề chú ý. Cuối cùng không có cái gì để gọi là trình diễn cả. Sau đó, chỉ còn lại một cảm giác trống rỗng, nhưng không thể được xem xét và cân nhắc với một thái độ kỹ lưỡng bởi vì nhịp sống cuồng nhiệt của chúng ta. Chúng ta xê dịch để tìm phút giây vui đùa kế tiếp, đi lang thang không mục đích. Những thông tin mới tràn tới không chán mỏi.
Trong phạm vi con người và tất cả những hiện tượng tạo ra bởi con người, những yếu tố di động và tĩnh lặng cơ bản đều duy trì trạng thái cân bằng. Nhưng trong cuộc tồn sinh của chúng ta ngày nọ kế tiếp ngày kia, chúng ta đặt trọng tâm vào khía cạnh di động, và ngày tháng tiêu pha không tránh khỏi trở thành nhạt nhẽo. Những hành động và thái độ cá nhân chúng ta không có ý nghĩa bao nhiêu. Mới đây đạo đức xuống dốc đáng kể ở khắp nơi, và ở mọi tầng lớp xã hội, phần lớn do việc này mà ra.
Trong những tình huống như thế, sống cuộc đời hằng ngày tràn ngập bởi những thông tin mới, chúng ta cuối cùng bắt buộc phải tìm lại sự mất mát thời gian sống riêng cho mình và ý nghĩa của tĩnh lặng. Nhưng ở điểm này, Duy Thức Học đặt câu hỏi về ý nghĩa sâu xa của hành động con người. Vì hậu quả những hành động của chúng ta không bao giờ kết thúc, nên năng lượng chuyên chở tính thiện và bất thiện của hành động được khắc sâu tới một mức nào đó vào tầng sâu kín của tâm, và nănglực-như-chủng-tử còn lại của hành động được ghi khắc vào A-lại-da thức. Những tính chất này được truyền đi tới vô tận, tiếp tục như tiềm năng trong A-lại-da thức. Vì tất cả những sự kiện này xảy ra trong vùng của tâm mà ý thức không thể vói đến được, dù cho sự hiện hữu của những chủng tử này có phiền phức đến đâu cho tình trạng hiện thời của bản ngã, cũng không thể làm gì được, dù một điều nhỏ bé nhất.
Eishun, vị tăng uyên bác của chùa Hưng Phước, đã đề cập ở trước, đã sáng tác vần thơ gây xúc động sâu xa như sau: “Bất cứ cái gì người ta đã trải qua, những chủng tử xác thực và bền vững đều giữ trọn.” (Tamon’in nikki)
Một khi những chủng tử đã được huân tập vào trong A-lại-da thức ta có thể tin tưởng vào sự kiện là chúng sẽ không bao giờ bị thui chột; dựa trên việc các chủng tử được hội nhập một cách chắn chắn và rõ ràng, ý nghĩa hành động của con người được xác nhận. Biết được như thế, ta đương nhiên nên tránh khỏi những việc phù phiếm hời hợt, và trở nên có ý thức.
Đây là động lực đằng sau cơ chế tâm thức của những chủng tử phát sinh hiện hành và hiện hành huân tập chủng tử, điều này làm cho những chủng tử của tiến trình đầu tiên và tiến trình thứ ba hơi khác nhau. Và một lần nữa, sự duy trì nhận biết như thế thì đúng là vấn đề thuộc về tâm thức của chúng ta.
Vì những chủng tử của một số lớn hành động tích lũy và thái độ này được gieo trồng trong trong tận lớp sâu kín của tâm chúng ta, cuối cùng A-lại-da thức, xem như một tổng thể, sở hữu tất cả những hành động trong quá khứ chúng ta và lấy đó làm nội dung chất chứa. Nói một cách khác, ta chỉ là người tạo ra chính mình bằng những hành động của chính mình. Cho dù xã hội trong đó tôi đang phải sống biến chuyển đáng kể đến đâu, những hành động của tôi không thể nào bị xem như là một thứ không có ý nghĩa. Không, chúng ta đương nhiên có thể bắt đầu xem hành động của mình có ý nghĩa sâu xa.
Như thế, đối với nhận thức mới mẻ này của chúng ta về tầm quan trọng trên hành động gồm cả những hành động tầm thường và thế tục nhất, sự nghiên cứu về cơ chế của tâm được hiểu bởi Duy Thức Học Phật Giáo có thể đóng một vai trò rất có hiệu quả.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet