Ngọc Sáng trong Hoa Sen
✍️ Mục lục: Ngọc Sáng trong Hoa Sen
Chương VII: Biển Khổ
Khi tôi trở lại Trung Hoa thì cuộc chiến Trung – Nhật vừa bùng nổ, quân đội Nhật tấn công và chiếm Bắc Kinh. Mặc dù có đầy đủ giấy tờ thông hành nhưng tôi vẫn không thể trở lại Bắc Kinh nên đành theo chân đoàn người tị nạn di tản xuống miền nam. Chuyến xe lửa từ Bắc Kinh xuống Nam Kinh đông nghẹt người, nhiều kẻ phải ngồi cả trên nóc xe. Dọc theo đường xe lửa, từng đoàn người bồng bế nhau chạy loạn, già trẻ lớn bé, người ôm đồ đạc, kẻ gồng gánh quần áo, trẻ thơ lạc cha mẹ, gia đình thất tán, người ta kêu khóc vang trời, thật là một cảnh tượng thê thảm chưatừng thấy.
Vừa đến Nam Kinh được vài hôm thì quân Nhật đã tấn công vào thành phố này. Một cảnh tượng hỗn loạn, kinh hoàng xảy ra. Dân chúng dắt díu nhau chạy loạn. Súng lớn súng nhỏ nổ vang rền, quân đội Trung Hoa vừa chống cự vừa áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến, chạy đến đâu đốt cháy nhà cửa đến đó để quân Nhật không có chỗ trấn đóng, nhưng họ không thành công. Chỉ một thời gian ngắn quân Nhật đã tràn vào thành phố và cuộc thảm sát đẫm máu bắt đầu.
Xác người chết nằm chồng chất ngoài đường, mùi thịt da hôi thối xông lên nồng nặc. Nhờ tránh nạn tại tòa đại sứ Anh nên tôi may mắn không gặp khó khăn nào nhưng tâm hồn đa cảm của tôi không thể chịu nổi tình trạng này. Thần kinh của tôi căng thẳng, đầu óc tôi như tê liệt trước tình thế hãi hùng trước mắt. Hàng ngày chúng tôi theo dõi tin tức qua đài phát thanh và các bản tin ngắn chuyển bằng điện tín. Hàng triệu người chết, hàng trăm thành phố thất thủ, rồi có tin quân Nhật đã chặn đứt trục giao thông với Thượng Hải và phong tỏa thành phố này. Không thể đi Thượng Hải, chúng tôi bèn theo chân đoàn người tị nạn tiếp tục chạy xuống miền Nam. Chưa bao giờ cuộc đời tôi lại bước vào một ngả rẽ hãi hùng như vậy. Cho đến lúc đó tôi mới thật sự hiểu được nghĩa của từ “biển khổ” mà người ta vẫn thường nói đến. Tôi đã thấy những xác người bị chặt đầu treo trước cửa chợ để cảnh cáo dân chúng. Khắp nơi, đâu đâu cũng đầy xác người chết, thành phố nào tôi đi ngang cũng khói lửa ngút trời. Quân đội Nhật đốt cũng có và quân đội Trung Hoa đốt cũng có. Không bút mực nào có thể diễn tả được cảnh tượng này và đến nay khi viết những dòng chữ này tôi vẫn xúc động, không thể nói hết được cái kinh nghiệm khủng khiếp mà tôi phải trải qua trên đường chạy loạn.
Tôi đến Côn Minh, tỉnh Vân Nam vào một buổi chiều. Tôi không biết làm sao mình có thể đến đây mà không hề hấn gì nhưng thật ra đầu óc tôi đã bị khủng hoảng nặng nề. Tôi đã sống như một cái máy, đầu óc tê liệt không còn biết xúc động là gì nữa. Suốt mấy tháng theo chân nhóm người chạy loạn, lúc chạy lên phía bắc, khi tìm đường ra biển, lúc lại theo những khúc sông đi về hướng tây mà chẳng biết mình chạy đi đâu nữa. Sau cùng chúng tôi cũng đến ranh giới tỉnh Vân Nam. Khi đó quân đội Nhật chỉ lo chiếm đóng những thành phố công nghiệp lớn dọc theo ven biển chứ không đi sâu vào nội địa nên thành phố này còn được yên tĩnh. Sau khi nghỉ ngơi ít hôm, tôi được biết gần đó có một Thiền viện lớn gọi là Hoa Thanh tự. Trước đây mấy năm đó là một ngôi Chùa đã đổ nát, hoang tàn vì thiếu người săn sóc nhưng nhờ Hòa thượng Hư Vân đi qua thấy vậy bèn dừng chân lại quyên góp tiền bạc để tu sửa. Sau đó ngài còn cử một số đệ tử đến trụ trì, biến ngôi cổ tự này thành một Thiền viện dưới sự bảo trợ của ngài. Thật khó có thể diễn tả được sự vui mừng của tôi khi nghe tin này. Tôi muốn tìm một chỗ trú ẩn để lấy lại sự an tĩnh trong tâm hồn trong hoàn cảnh hỗn loạn khi đó. Về sau có nhiều người chê trách tôi là ích kỷ, giữa hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh như thế lại ẩn tránh vào một Thiền viện, nhưng thật ra tôi không thể làm gì hơn được. Trong suốt sáu tháng trời trôi giạt từ Bắc Kinh xuống Côn Minh, tôi đã trải qua mấy ngàn cây số với đoàn người chạy loạn, đã chứng kiến biết bao cảnh đổ máu đầu rơi, đầu óc hoang mang của tôi đã căng thẳng đến cực độ và cần một thời gian để quân bình. Dĩ nhiên lúc đó tôi chỉ muốn tìm một nơi trú ngụ chứ chưa muốn trở thành một tăng sĩ vì quyết định xuất gia không phải là một việc nhẹ. Tại Thái Lan hay Miến Điện, người ta có thể xuất gia và hoàn tục ba lần, nhưng tại Trung Hoa, việc hoàn tục là một điều khó có thể chấp nhận được. Do đó tôi vẫn đắn đo chưa dám quyết định hẳn, chỉ muốn vào Chùa sống tạm một thời gian để cho đầu óc tỉnh táo lại thôi. Tôi suy nghĩ về việc này mãi vì hiển nhiên ý tôi là một việc nhưng liệu các tăng sĩ trong Chùacó chấp nhận việc này hay không lại là một vấn đề khác.
Từ Côn Minh người ta phải đi đò mất hai giờ mới đến Hoa Thanh tự. Đó là một tu viện lớn, một mặt quay ra phía bờ sông, một mặt giáp với một cánh rừng lớn rậm rạp. Khi tôi vừa bước vào sân Chùa thì thấy vị trụ trì đang đứng sẵn ở đó.
Sau câu chào hỏi xã giao, chưa kịp nói rõ ý định của mình thì vị tu sĩ đã nói trước:
– Sư phụ chúng tôi đã biết trước sẽ có ngày tiên sinh đến đây nên dặn chúng tôi phải đón tiếp tiên sinh cẩn thận…
Tôi giật mình không hiểu tại sao lại có chuyện kỳ lạ như thế được:
– Hòa thượng… Hòa thượng Hư Vân đã nói như thế sao?
– Đúng thế. Cách đây mấy tháng sư phụ chúng tôi có ghé qua đây để dạy dỗ chúng tôi. Trước khi lên đường trở về Nam Hoa, ngài dặn rằng sẽ có một Phật tử người Anh tìm đến xin gia nhập tu viện.
– Nhưng… nhưng tôi chỉ có ý định… Vị trụ trì mỉm cười ngắt lời:
– Tiên sinh không phải lo về vấn đề xuất gia thọ giới. Sư phụ đã dặn hãy để cho tiên sinh được tự nhiên. Tiên sinh có thể sống trong tu viện này như một tăng sĩ nhưng dĩ nhiên không phải thọ giới Tỳ kheo.
Thật không thể diễn tả được sự vui mừng của tôi lúc đó. Điều tôi đang phân vân lo ngại đã được giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng tại sao Hòa thượng Hư Vân lại đối xử với tôi một cách đặc biệt như vậy? Năm trước ở Chùa Nam Hoa, ngài đã dặn các tăng sĩ giúp đỡ tôi một cách đặc biệt và lần này ngài lại biết trước sự có mặt của tôi tại một thành phố hẻo lánh như Côn Minh này.
– Tiên sinh đã có duyên với sư phụ chúng tôi từ trước, có lẽ tiên sinh không biết đấy thôi. Một ngày nào đó tiên sinh sẽ hiểu rõ hơn.
Nhiều năm sau, khi tôi gặp truyền nhân của Hòa thượng Hư Vân là ngài Tuyên Hóa tại San Francisco thì tôi mới biết được rằng, Hòa thượng Hư Vân đã biết trước việc tôi sẽ viết những cuốn sách nói về Phật Giáo và ngài có ý muốn giúp đỡ cho tôi.
Để hòa đồng với các tăng sĩ trong Chùa, tôi xin phép được cạo tóc và ăn mặc như một tăng sĩ với hai bộ quần áo màu lam, một bộ ngắn tay để mặc trong lúc làm việc và một bộ dài tay để mặc trong lúc lễ bái. Dĩ nhiên vì không thọ giới Tỳ kheo nên tôi không được khoác áo cà sa như các tăng sĩ trong Chùa. Sau khi sống trong Chùa một thời gian ngắn, tôi được phép gia nhập nhóm Thiền tăng và được chỉ định một chỗ ngồi nhất định trong Thiền đường.
Để giúp độc giả hiểu biết thêm về sinh hoạt tiêu biểu của một Thiền viện Trung
Hoa lúc bấy giờ, tôi xin phép nói qua về sinh hoạt trong Hoa Thanh tự: Các tu sĩ tại đây được chia thành hai nhóm rõ rệt. Nhóm thứ nhất là những tăng sĩ thông thường, có nhiệm vụ làm các công việc quản trị, bảo trì Thiền viện. Mỗi ngày họ chỉ phải tham dự hai khóa lễ vào lúc sáng sớm và sau khi mặt trời lặn. Đa số được giao phó những công việc nhất định như trồng trọt, quét dọn, nấu nướng, lau chùi chánh điện hay quản trị thư viện. Một thiểu số được tuyển chọn để tiếp xúc với các tín đồ và lo việc hướng dẫn các khóa lễ như cầu an, cầu siêu. Nhóm thứ hai là những tăng sĩ chuyên về tu Thiền, họ sống hẳn trong Thiền đường dưới sự hướng dẫn của một vị trưởng lão. Mặc dù cũng tham dự hai khóa lễ khuya sớm như nhóm trước nhưng họ không phải làm các công việc lao động hay tiếp xúc với các tín đồ. Họ sống giản dị, ăn uống qua loa, khẩu phần thường chỉ là một bát cơm trộn ít rau dưa mà thôi. Thời gian còn lại họ dốc lòng vào việc tu Thiền. Mỗi tháng họ được phép nghỉ ngơi bốn ngày (mồng một, mồng tám, ngày rằm và ngày hai mươi ba âm lịch) để làm các công việc thông thường như tắm gội, may vá hoặc cạo tóc cho nhau. Trong những ngày này, không có các thời khóa tu Thiền, Thiền đường được mở rộng cửa để lau dọn. Trong ngày nghỉ, khẩu phần cũng được gia tăng lên nhiều hơn những ngày thường với các món ăn như đậu hũ, rau tươi, các món xào nấu mà người ta có thể ăn tự do không bị giới hạn. Tôi thiết nghĩ nếu không có những ngày nghỉ ngơi, xả giãn, ăn uống thoải mái như thế này thì khó ai có đủ sức khỏe để tu tập lâu dài được.
Thiền đường là một phòng rộng, giữa có một bàn thờ và quanh đó có trải những tấm thảm dày. Mặc dù Thiền đường có thể chứa hơn sáu mươi người nhưng trong thời gian sống tại đây, tôi chỉ đếm được hơn bốn chục tăng sĩ. Hiển nhiên bốn mươi người sống chung trong một căn phòng như vậy từ ngày này qua tháng nọ không phải dễ nếu không có một quy lệ như tuyệt đối phải im lặng trong khi Thiền tập hay trước lúc ngủ. Tuy có cửa sổ nhưng tất cả đều được đóng chặt trong thời gian tu tập nên phòng lúc nào cũng tối, ánh nến lờ mờ trên bàn thờ không đủ soi sáng để đọc sách hay khâu vá. Để tránh việc các Thiền sinh phải ngồi quá lâu nên cứ sau mỗi thời khóa Thiền, mọi người lại xếp hàng đi Kinh Hành chung quanh bàn thờ khoảng mười vòng dưới nhịp của một chiếc mõ lớn.
Đời sống trong Thiền viện thường bắt đầu vào lúc rạng sáng, khoảng một giờ trước khi mặt trời mọc. Cho đến nay hình ảnh này vẫn in hằn trong trí óc tôi, một hình ảnh nhẹ nhàng êm đềm mà không bao giờ tôi có thể quên được. Thiền đường im lặng như tờ, ngọn nến lờ mờ trên bàn thờ không đủ soi rõ quang cảnh chung quanh, mỗi người chúng tôi đều quấn một tấm chăn mỏng, nằm quay đầu về phía bàn thờ. Tăng sĩ có phận sự giữ nhang đèn vẫn quỳ trước bàn thờ, thong thả niệm Phật, thỉnh thoảng lại lễ xuống một cách nhịp nhàng. Bất chợt từ ngoài hành lang, có ba tiếng chuông nhỏ vọng vào để báo thức và các tăng sĩ vội vã thức dậy. Họ có khoảng hai mươi phút để dọn dẹp chỗ nằm và ra giếng múc nước rửa mặt, súc miệng hoặc làm công việc vệ sinh. Cứ khoảng năm phút lại có một hồi chuông nhỏ như để nhắc nhở các tăng sĩ. Sau khi mọi người đã thay áo và sắp hàng trước cửa chánh điện thì một hồi chuông trống bát nhã được khua vang báo hiệu buổi lễ bắt đầu. Cửa chánh điện được mở rộng, các tăng sĩ thong thả bước vào, Thiền tăng bên phải, các tăng sĩ khác bên trái, ai ai cũng đều phải ngồi vào chỗ nhất định trước khi vị chủ lễ bắt đầu.
Sau buổi lễ là đến giờ ăn. Chúng tôi sắp hàng đi xuống nhà bếp. Món ăn duy nhất vào lúc đó là món cháo trắng, đôi khi người ta cho thêm một ít cải muối mặn vào đó cho dễ ăn. bữa ăn diễn ratrong một bầu không khí yên lặng tuyệt đối, nhất là với các Thiền sinh, vì ai cũng phải áp dụng nghi thức Tam Đề, Ngũ Quán. Tam Đề là trong ba miếng ăn đầu phải giữ lòng cho thật thanh tịnh, khi nhai miếng thứ nhất phải tâm nguyện không làm điều ác, khi nhai miếng thứ hai phải tâm nguyện chỉ làm điều lành, khi nhai miếng thứ ba phải tâm nguyện sẽ cứu độ tất cả mọi chúng sinh. Sau đó bưng bát lên phải quan sát năm công ơn mà mình đang thọ hưởng: công ơn Phật giáng trần cứu độ chúng sinh, công ơn sư trưởng dạy dỗ, công ơn cha mẹ sinh thành, công ơn các thí chủ cúng dường, công ơn những người trong xã hội làm việc khó nhọc mới có cơm ăn, áo mặc và chia sẻ cho mọi người. Tuy đã từng sống trong nhiều tu viện khác nhau, nhưng tôi thấy duy chỉ tại Hoa Thanh tự, kỷ luật này mới được áp dụng chặt chẽ.
Sau bữa ăn, các Thiền sinh sắp hàng trở về Thiền đường và bắt đầu thời khóa Thiền trong khi các tăng sĩ khác chuẩn bị công việc của họ. Chúng tôi trải tọa cụ và ngồi vào những vị trí đã được định trước. Sau khi mọi người đã ngồi yên lặng, vị trưởng lão bắt đầu châm một nén nhang lên bàn thờ và gõ nhẹ ba hồi mõ, thời khóa Thiền bắt đầu. Vào lúc này chúng tôi chỉ cố gắng giữ hơi thở cho đều và giữ tâm yên lặng. Những người mới tập được hướng dẫn theo dõi hơi thở bằng cách đếm từng hơi thở thở ra, hít vào cho đủ số. Sau khi nén nhang cháy hết, vị trưởng lão gõ thêm ba tiếng mõ báo hiệu rằng khóa Thiền đã chấm dứt, chúng tôi có khoảng năm phút để duỗi chân, xoa bóp cho đỡ mỏi và bắt đầu sắp hàng đi Kinh Hành chung quanh bàn thờ. Chúng tôi phải đi làm sao cho mỗi bước ăn nhịp với tiếng mõ của vị trưởng lão, lúc đầu còn chậm sau nhanh dần cho đến khi một tiếng chuông ngân lên thì mọi người biết rằng họ đã đi đủ ba vòng chung quanh Thiền đường. Khi đó mỗi người bước ngang bàn thờ thì chắp tay vái xuống và được trở về chỗ ngồi. Vị trưởng lão thong thả thắp một nén nhang thứ hai lên bàn thờ nhưng lần này ông đưa ra một câu nói để mọi người suy ngẫm. Đề tài đưa rathay đổi hằng ngày nhưng dĩ nhiên đó không phải là một đề tài để thảo luận.
Khác với các tu viện Tây Tạng hay Mông Cổ trên Ngũ Đài, người ta không đưa ra những lý luận để bàn cãi mà là để suy ngẫm, quán tưởng trong lúc ngồi
Thiền. Không như thời khóa trước, thời khóa sau kéo dài hơn và có hai Thiền sinh được lệnh cầm roi đi tuần quanh Thiền đường. Nếu họ thấy ai ngồi mà đầu gục xuống hoặc miệng chảy nước dãi thì họ biết người đó đang ngủ gục, họ sẽ đến bên cạnh quất nhẹ cây roi vào vai để đánh thức. Nó là roi nhưng thực ra đó chỉ là một cây gỗ mỏng, không thể gây đau đớn nhưng đủ để người ngồi Thiền cảnh giác và tập trung tư tưởng.
Lúc đầu tôi thường suy nghĩ nhiều về những câu nói mà vị trưởng lão đưa ra, nhưng về sau tôi mới biết rằng câu nói đó không phải là một đề tài để người ta suy nghĩ hay tìm cách trả lời, mà chỉ là một phương tiện để Thiền sinh tập trung tư tưởng. Càng cố gắng trả lời là càng đi lạc vấn đề, vì thông thường người ta luôn luôn có phản ứng trước những câu hỏi đặt ra. Vấn đề chính ở đây là làm sao giữ mãi câu hỏi đó trong tâm trí nhưng không nhất thiết phải trả lời. Nếu không có câu hỏi thì tâm thường lao xao bất động, lúc nghĩ chuyện này khi nghĩ chuyện khác, nên mới phải có một câu nói đưa ra như một cách để tập trung tư tưởng mà thôi. Dĩ nhiên cũng có người không đồng ý và cho rằng đó là một loại công án mà người ta phải tìm cách trả lời. Theo sự hiểu biết của tôi thì công án chỉ là một phương Pháp của vị thầy, vốn biết rõ căn cơ học trò, nói ra để hướng dẫn, để khai ngộ, để giải đáp thắc mắc cho học trò. Dĩ nhiên nếu học trò hiểu được, tức thì cởi bỏ các khúc mắc đó ngay. Theo phương Pháp này, vị thầy chỉ trao cho học trò một câu thoại đầu, một công án để học trò suy ngẫm chứ không chỉ một cách nào khác. Nếu như thế, đó chỉ là một câu nói có tính cách riêng tư giữa thầy và trò, không phải đề mục mang ra nói như những người khác vì căn cơ mỗi người một khác, đâu ai giống ai. Trong thời gian tu tập tại Hoa Thanh tự, vị trưởng lão hướng dẫn không hề đề cập đến danh từ “Công án”.
Ngày nay các sách vở viết về Thiền đã được dịch ra tiếng Anh khá nhiều. Các bậc học giả đua nhau bàn luận về Thiền và cố gắng đưa ra những lời giải thích, nhất là giải thích về Công án mà tôi cho rằng vốn không thể giải thích. Nhiều học giả Phương Tây đã ca tụng rằng Thiền giản dị, dễ hiểu vì không phải sử dụng đến các danh từ, ngôn ngữ nhiều như các Pháp môn khác. Làm sao một Pháp môn “Bất lập văn tự” mà lại được người ta viết sách nói quá nhiều như vậy? Theo sự hiểu biết của tôi, Thiền là một Pháp môn đòi hỏi người tu phải nỗ lực cả đời người. Người ta không thể tu Thiền bằng cách đọc một vài cuốn sách hay nghe người khác luận bàn về các Công án được. Dĩ nhiên đó là ý kiến riêng của tôi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi.
Mỗi buổi sáng chúng tôi có khoảng ba thời khóa liên tiếp như vậy trước khi được nghỉ ngơi cho xả giãn khoảng một giờ. Trong lúc này, một số người đứng dậy vươn vai, duỗi chân cho đỡ mỏi, có người thì thầm trò chuyện và có một số người vẫn tiếp tục ngồi Thiền như một nỗ lực cá nhân. Khoảng trước Ngọ, một hồi chuông vang lên báo hiệu đã đến giờ ăn. Mọi người xếp hàng đi xuống phòng ăn. Bữa trưa cũng rất giản dị. Một bát cơm, một bát nước rau nấu loãng hoặc một ít rau luộc là nhiều. Đối với một người quen ăn ngon như tôi, cơm rau dưa như vậy quả khó nuốt và nhiều lúc tôi chỉ mong cho đến ngày được ăn những món xào hoặc chiên.
Một số người cho rằng cuộc sống tu hành thanh đạm như vậy là quá vô vị, nhàm chán nhưng kinh nghiệm của tôi lại khác. Thật ra lúc đầu tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn nhưng sau này nghĩ lại, đó lại là những ngày đẹp đẽ nhất trong đời tôi. Nhờ sống khổ hạnh như vậy mà tôi bắt đầu ý thức được những cái đẹp trong đời sống, những cái đẹp giản dị như một vệt nắng trong sân Chùa, một bông hoa bé nhỏ trên mái ngói, một cơn gió mát trong buổi trưa hè. Những cái đẹp đến thật nhẹ nhàng như một bát nước trà, một cái bánh khọt sau mấy tuần lễ ăn toàn cơm với nước rau nhạt. Một số người là người Âu vẫn không thể hiểu tại sao khi đi tu người ta phải sống khổ hạnh như vậy. Tôi được giải thích rằng, các tăng sĩ phải sống một cuộc đời “tam thường, bất túc” nghĩa là ăn mặc, ngủ nghỉ không được sung túc đầy đủ. Ăn cho đủ sống để tu, mặc chỉ cần ba bộ là đủ, khi ngủ chỉ vừa vặn để tránh lười biếng. Có sống trong sự bất túc mới thông cảm được với người nghèo khó, có đói mới hiểu những người không có cơm gạo mà ăn, và có khổ mới nhất quyết tìm đường thoát khổ. Nếu ăn ngon, mặc ấm, ngủ cho đẫy giấc thì dễ sinh lười biếng, khó Thiền định hay ít biết nghĩ đến người khác.
Sau bữa cơm trưa, chúng tôi trở về Thiền đường nghỉ ngơi và bàn luận khoảng một giờ trước khi bắt đầu vào các thời khóa Thiền. Có khoảng bốn thời khóa vào buổi chiều, kéo dài cho đến tận khuya. Các tăng sĩ thông thường được ăn bữa cơm tối nhưng các Thiền sinh chỉ được ăn ngày một bữa mà thôi. Thời gian lặng lẽ trôi qua, chúng tôi chăm chỉ Thiền tập dưới sự hướng dẫn của vị trưởng lão. Nhiều người nói rằng nếu thực hành đều đặn thì thế nào cũng gặt hái được kết quả không nhiều thì ít, nhưng phải nói rằng nếu tôi có đạt được chút kết quả gì thì nó cũng không đáng kể là bao. Sau một thời gian khá lâu thực hành, nhiều lúc tôi cũng thấy nản chí nhưng các bạn đồng môn đã khuyến khích và an ủi tôi rất nhiều. Tôi không biết những người khác có những kinh nghiệm gì nhưng một tăng sĩ trẻ tuổi đã kể với tôi như sau:
– Tôi không biết các huynh đệ khác nghĩ sao nhưng tôi thấy lời giảng của vị trưởng lão rất giản dị dễ hiểu. Khi xưa tôi không hiểu gì nhiều cứ chăm chỉ thực hành, ngồi yên, giữ tâm yên lặng, điều hòa hơi thở. Tôi không mong điều gì mà chỉ theo dõi từng hơi thở nhịp nhàng, tôi cảm thấy rõ ràng nhịp tuần hoàn của máu chạy trong huyết quản, tâm tôi lặng tĩnh không có một vọng niệm gì và một hôm bất chợt tôi thấy hình như trái tim tôi đang nói chuyện với tôi. Tôi không hiểu nó nói gì nhưng lòng tôi rộn ràng một cảm giác kỳ lạ. Tôi không thể diễn tả cái cảm giác sung sướng tràn ngập khắp người đó, mỗi khi xả Thiền tôi ý thức một sự thay đổi rõ rệt trong người. Tôi không biết nó là gì nhưng chỉ cảm thấy hết sức thoải mái, sung sướng. Sau mỗi lần Thiền tập, cảm giác này lại đến với tôi và có hôm tôi thấy hình như mình đang bơi lội trong một biển ánh sáng rực rỡ. Tự nhiên tôi thấy mình hiểu được những lời hướng dẫn của vị trưởng lão mà trước đó tôi không sao hiểu được. Dĩ nhiên đây chỉ là một kinh nghiệm có tính cách cá nhân, không thể giải thích và cũng không thể bàn luận, nhưng khi nào kinh nghiệm được nó thì huynh sẽ hiểu được điều tôi nói.
Lúc đó tôi không ý thức được điều này nên cũng không nói gì nhiều nhưng nhiều năm sau tôi thấy đó là một kinh nghiệm hết sức quý báu. Tôi tin tưởng tuyệt đối rằng khi tâm an tĩnh thì sẽ có định, và khi có định thì trí tuệ sẽ nảy sinh.
Nảy sinh dưới hình thức gì thì chỉ có người đó hiểu được mà thôi, nhưng chắc chắn khi trí tuệ phát triển người ta sẽ bước chân vào một chân trời mới mà mọi sự có thể thông suốt một cách dễ dàng. Dĩ nhiên kinh nghiệm này không ai giống ai vàcũng không thể so sánh hay bàn luận được.
Sau gần một năm sống yên tĩnh tại Hoa Thanh tự, tôi cảm thấy đầu óc thoải mái quân bình trở lại và đã đến lúc tôi lên đường trở về với cuộc sống thế tục bên ngoài. Tôi không biết rõ chuyện gì đang xảy ra vì đời sống trong tu viện hoàn toàn biệt lập nhưng tôi biết đã đến lúc tôi phải trở về nước Anh thăm cha tôi như đã hứa. Khi tôi rời Hoa Thanh tự thì chiến tranh đã lan rộng ra khắp Thế Giới. Tôi vừa về đến Luân Đôn thì nhận được giấy gọi nhập ngũ. Sau một thời gian huấn luyện quân sự, thay vì cầm súng thì tôi được thuyên chuyển về ban phiên dịch nhờ có khả năng ngoại ngữ. Sau hai năm làm việc tại đây, tôi được bổ sung vào Bộ Ngoại giao với tư cách nhân viên biệt phái. Chỉ được vài tháng sau tôi đã cầm sự vụ lệnh trở lại Trung Hoa với danh nghĩa một tham vụ ngoại giao.
Khi tôi trở lại Trung Hoa thì chiến tranh đã bước vào giai đoạn khốc liệt. Sau cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ chính thức tham dự cuộc chiến nhưng lúc đó quân Nhật vẫn đang nắm thế chủ động. Chỉ một thời gian ngắn, họ chiếm Hồng Kông, tấn công các căn cứ quân sự của Anh tại Philippines, Malaysia và Singapore. Để đối phó, cả nước Anh lẫn Hoa Kỳ đều gia tăng các phi vụ dội bom lên các thành phố của Nhật, mặt khác họ tăng cường viện trợ cho Trung Hoa để tổ chức các cuộc chiến đấu trên bộ. Chiến thuật của quân Trung Hoa khi đó là tập kích, phá hoại các cơ sở, đường giao thông chứ không trực tiếp đối đầu với quân Nhật. Hiển nhiên một cuộc chiến như thế gây nhiều xáo trộn và thiệt hại lớn cho dân chúng. Để trả đũa, quân Nhật liên tiếp tấn công các tỉnh lớn của Trung Hoa như Chiết Giang, Hàng Châu, Hồ Kiều, Nam Xương. Mục tiêu chính của họ là phong tỏa Trùng Khánh, nơi chính phủ Trung Hoa đặt bộ chỉ huy. Tình cảnh dân chúng khi đó hết sức bi đát, hàng triệu người luôn luôn ở thế bị động, di tản từ thành phố này qua thành phố khác để lánh nạn. Nhiệm vụ mới của tôi là liên lạc với các nhà trí thức lãnh đạo Trung Hoa, đưa họ đến những nơi chốn an toàn hoặc nếu cần, giúp họ xuất ngoại. Ngoài ra tôi còn hợp tác với Bộ Giáo dục để tổ chức các lớp học tại những nơi thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Trung Hoa. Phải nói rằng tinh thần học hỏi của người Hoa rất cao. Mặc dù các đại học đều đóng cửa hoặc di chuyển về vùng xa xôi nhưng sinh viên ghi tên học vẫn chiếm một con số rất lớn. Cũng trong thời gian này tôi có dịp tiếp xúc với hai nhà lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng là Hòa thượng Thái Hư và Đại sư Hutukhutu.
Hòa thượng Thái Hư là người đã khởi xướng phong trào chấn hưng Phật Giáo vào đầu thế kỷ 20 tại Trung Hoa. Khi đó tình hình Phật Giáo đang rơi vào tình trạng suy đồi trầm trọng. Những bậc cao tăng đạo hạnh thì ít nhưng những người mượn áo tu hành như một nghề nghiệp để kiếm sống thì nhiều vô kể. Tôi đã gặp nhiều nhà sư không biết đọc biết viết hay hiểu nghĩa một câu kinh mà chỉ thuộc lòng một số nghi thức cúng kiếng như một hình thức sinh nhai. Nhiều người uống rượu, ăn thịt, không giữ giới luật, có người còn có cả vợ con nữa. Phần lớn Chùa chiền không còn là những nơi có thanh quy mà chỉ là chốn tụ tập để buôn thần bán thánh, để tín đồ đến cầu tài, cầu lộc hay cầu phước. Thay vì thuyết Pháp độ sinh, giảng dạy các chân lý cao thượng thì các sư sãi này lại mang những hình thức mê tín dị đoan ra dọa nạt chiêu dụ tín đồ. Chân lý cao đẹp nhằm đưa đến việc thoát ly sinh tử đã bị các tăng sĩ biến thành một thứ thần quyền với những hứa hẹn hão huyền, các nghi thức cúng kiếng cầu đảo, lên đồng nhập cốt, cúng sao giải hạn, v.v.
Trước tình trạng hủ hóa này, Hòa thượng Thái Hư, một tăng sĩ có uy tín, đã lên tiếng kêu gọi việc chấn hưng Phật Giáo. Ngài đặt ra một hệ thống giáo dục mới, tổ chức một giáo hội tương tự như giáo hội của Thiên Chúa giáo. Các tăng sĩ phải đến lớp học, trải qua những kỳ thi, được cấp bằng về Phật học trước khi được gửi đến trụ trì một ngôi Chùa nào đó. Đây là một sáng kiến mới mẻ nhằm đưa Phật Giáo ra khỏi con đường mê tín, hủ hóa, nhưng có lẽ vì quá mới nên đã gặp nhiều chống đối. Ngoài phản ứng của các tăng sĩ đương thời, ngài còn gặp sự chống đối của chính quyền, lo ngại một lực lượng tôn giáo có tổ chức sẽ ảnh hưởng đến tình hình chính trị đang bấp bênh khi đó.
Mặc dù chính quyền Trung Hoa hay Quốc Dân Đảng là một tổ chức được công nhận trên chính trường quốc tế nhưng thực ra nó gồm nhiều thành phần hỗn tạp khác nhau hợp lại. Tuy kết hợp để chống Nhật nhưng các thành phần này vẫn tranh giành ảnh hưởng và không ngại thanh toán lẫn nhau. Chính vì tổ chức lỏng lẻo, nội bộ chia rẽ nên những người cầm quyền dễ bị mua chuộc bởi những kẻ lợi dụng thời cơ trục lợi. Tình trạng hối lộ, tham nhũng, hối mại quyền thế và nạn cướp bóc, giết người đoạt của xảy ra rất thường. Một trong những nơi bị nhiều người nhòm ngó là các Chùa chiền, tu viện vốn có tài sản, đất đai, ruộng nương riêng. Tôi đã thấy nhiều ngôi Chùa bị chính quyền địa phương trưng dụng làm cơ sở, các đồ quý giá bị tẩu tán, ruộng nương của Chùa bị tịch thu hoặc bán cho người khác. Vì tổ chức độc lập, không có một giáo hội làm hậu thuẫn, nên đa số Chùa chiền dễ trở thành những miếng mồi ngon cho kẻ tham lam sẵn có quyền lực trong tay. Ngày xưa tuy không được tổ chức chặt chẽ nhưng Chùa chiền được đặt dưới sự bảo trợ của triều đình. Các vị vua tôn sùng đạo Phật đã cho xây cất những bảo tháp, những đại hùng bảo điện to lớn nguy nga, đúc những pho tượng bằng vàng, ban phát cho Chùa nhiều đất đai, ruộng nương để các tăng sĩ có thể sống tự túc bằng những hoa lợi đó. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), chính quyền dân sự triệt để bài trừ những tàn tích phong kiến cũ. Họ không mấy có cảm tình với giới tăng lữ mà họ cho là đứng về phe cựu hoàng. Nhiều người đã coi Phật Giáo như những gì cổ hủ lỗi thời, có hại cho sự phát triển của quốc gia. Họ không ngần ngại đàn áp, cướp bóc, phá hoại những gì thuộc về truyền thống cũ.
Tôi gặp Hòa thượng Thái Hư tại Nam Kinh, một thành phố đổ nát hoang tàn vì bom đạn của quân đội Nhật. Hòa thượng là một người mập mạp, thấp bé, giọng nói đặc sệt âm Phúc Kiến nên rất khó nghe. Ngài có khuôn mặt tròn trĩnh, phúc hậu với chòm râu bạc khá dài, trông như một tiên ông trong tranh vẽ hơn là lãnh tụ một phong trào. Lần đó, trên hàng hiên của ngôi Chùa địa phương, ngài đã kể cho tôi nghe về chương trình làm việc của ngài. Theo Hòa thượng, để thích hợp với hoàn cảnh mới, Phật Giáo phải được tổ chức thành một giáo hội thống nhất thay vì hoạt động lẻ tẻ riêng rẽ.
– Nhưng tôi được biết các bậc lão tăng không đồng ý việc tổ chức một giáo hội như thế.
– Hiển nhiên rồi. Bất cứ một thay đổi nào cũng đều khó vì đa số đã quen với nếp sống cũ. Ít ai muốn thay đổi vì sợ xáo trộn mà hậu quả ra sao không ai có thể biết trước. Tuy nhiên đây là một vấn đề khẩn thiết vì nếu không thay đổi thì chính quyền có thể ban hành các biện Pháp mạnh đối với Phật Giáo giống như khi xưa Hoàng đế Henry đệ bát đã làm đối với giáo hội Thiên Chúa giáo tại nước Anh của tiên sinh vậy.
Tôi ngạc nhiên vì sự hiểu biết của Hòa thượng. Trong giao tiếp với những tu sĩ Trung Hoa, tôi nhận thấy ít ai có kiến thức về văn hóa, xã hội hay lịch sử châu Âu. Chúng tôi bàn luận khá lâu về những việc đã xảy ra trong thời Trung cổ và Phục hưng. Hòa thượng Thái Hư cho biết:
– Chúng tôi cần đào tạo những tu sĩ ưu tú để phục hồi Phật Giáo tại Trung Hoa. Nói một cách khác, một thời đại phục hưng tương tự như những sự kiện đã xảy ra tại châu Âu rất cần cho quê hương chúng tôi. Có lẽ tiên sinh cũng thấy, hiện nay chúng tôi sống có khác gì thời đại Trung cổ đâu! Mỗi miền được cai trị bởi một vị lãnh chúa còn toàn quyền sinh sát, muốn làm gì thì làm. Chính quyền trung ương quá bận rộn, đâu chú ý gì tới nhu cầu của dân chúng. Do đó, để sống còn, Phật Giáo cần phải được tổ chức lại dưới hình thức mới mẻ, hợp với thời đại mới. Tiên sinh có biết tại sao chính quyền Trung Hoa lại đối xử đặc biệt với những nhà truyền giáo người Âu trong khi coi thường những tu sĩ địa phương không? Tại vì những nhà truyền giáo này đã xây dựng được những trường đại học, mở mang và hướng dẫn dân trí. Họ đãthiết lập những hệ thống giáo dục mới mẻ, có thể đưa Trung Hoa tiến theo đà văn minh của Thế Giới. Trong khi đó, những tu sĩ Phật Giáo vẫn mơ mộng những chuyện viển vông, lo cầu an, cầu siêu, hay các hình thức mê tín dị đoan, vốn thật ra không hề có trong truyền thống của Phật Giáo.
Hòa thượng trình bày những kế hoạch mà ngài đang cho thi hành, từ việc tổ chức các trường học Phật Giáo đến chương trình giảng dạy cho tăng sĩ. Theo ngài, học trình sẽ được chia làm hai phần rõ rệt: ngoài phần căn bản về Phật học, các tăng sĩ còn phải học thêm ngoại ngữ, toán, khoa học vàlịch sử Thế Giới nữa.
Nghe Hòa thượng nói, tôi thấy ngài là người có óc tổ chức theo đường lối khoa học. Nếu sinh ra ở Trung Hoa trong thời trước, chắc hẳn ngài có thể trở nên một vị quan lớn, một tể tướng hay một chức quan nhất phẩm triều đình không chừng. Tuy nhiên tôi không hoàn toàn đồng ý với ngài về đường lối cải cách rập theo khuôn Âu châu, nhất là việc giảng dạy thêm các bộ môn như khoa học, xã hội, triết học và lịch sử cho các tăng sĩ. Là người Âu, tôi có một cái nhìn khác. Tôi thiết nghĩ Thế Giới này đã có quá nhiều trường đại học, quá nhiều chương trình giáo dục phân tách tỉ mỉ các khía cạnh của đời sống ra thành các mảnh vụn vặt. Đã có biết bao nhà khoa học xếp đặt đời sống qua các lý thuyết về triết học, kinh tế, chính trị và xã hội, nhưng họ đã giúp ích gì cho nhân loại? Phải chăng các lý thuyết mơ hồ này đã đem lại sự phân hóa con người? Lịch sử cho thấy mỗi khi một lý thuyết mới được đề xướng thì xã hội lập tức xáo trộn. Dù lý thuyết đó chủ trương gì chăng nữa, nó cũng chỉ là những mảnh vụn không hoàn hảo khi người sáng chế ra nó chưa đạt được sự toàn thiện nơi mình. Tôi nhớ khi còn ở Hồng Kông, Tạ Hải thường khuyên: “Này bạn, nếu muốn đến Tây Hồ thì bạn phải nhắm hướng đó mà đi. Nếu ngồi nhà đọc tất cả những cuốn sách nói về Tây Hồ thì có ích gì? Dĩ nhiên bạn có thể biết vị trí Tây Hồ qua bản đồ, bạn có thể biết xuất xứ, nguồn gốc của nó qua các cuốn sách địa dư, bạn có thể biết rõ nước trong hồ gồm những chất gì quasách hóa học, nhưng biết thế thì lợi ích gì? Làm sao bạn có thể hưởng được vẻ đẹp tuyệt vời của Tây Hồ vào một buổi sáng mùa thu, vào một ngày trăng tròn, trên con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ? Bạn phải đến đó mới thưởng thức trọn vẹn được nó. Người ta không thể thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời đó qua sách vở được. Cũng như thế, mục đích của Phật Giáo là giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Con đường này đòi hỏi người đi phải nỗ lực tu hành qua các phương Pháp mà Đức Phật đã chỉ dẫn chứ không thể đọc sách vở, bàn luận các danh từ, sắp đặt thành các hệ thống màcó thể giải thoát được!”.
Tôi nghĩ rằng tình trạng suy thoái của Phật Giáo Trung Hoa một phần là do những tu sĩ thiếu học thức, thiếu thực hành đã chỉ dẫn sai lạc, nhưng phần khác cũng do hoàn cảnh xã hội và trình độ hiểu biết của dân chúng khi đó nữa. Việc chấn hưng Phật Giáo qua chương trình đào tạo tăng sĩ là điều nên làm nhưng việc tổ chức và giảng dạy thêm các bộ môn như khoa học, lịch sử, xã hội sẽ chẳng giúp ích gì cho mục đích giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Phật Giáo không cần những học giả, những tăng sĩ có kiến thức khoa học mà chỉ cần những người biết tự giác và giác tha.
Theo thiển ý, chính người Âu phải tìm về châu Á để học hỏi những tinh hoa nơi đây chứ không phải người Á tìm học gì ở văn minh châu Âu. Lịch sử cho thấy rõ tất cả mọi truyền thống tôn giáo, mọi tinh hoa tốt đẹp nhất của nhân loại đều xuất phát từ châu Á, kể cả Thiên Chúa giáo, vì Trung Đông cũng thuộc vào văn hóa châu Á. Chính những người Âu đã vay mượn văn minh châu Á, sửa đổi nó đi cho thích hợp với lối sống và tư tưởng của họ, và thường làm cho các tinh hoa này suy đồi và trở nên thô bạo hơn xưa. Tuy khoa học đã giúp châu Âu thiết lập những định chế, quy luật và tổ chức xã hội, nhưng nó cũng góp phần vào việc tiêu diệt con người qua các tham vọng cá nhân hay tham vọng quốc gia dưới danh nghĩa một học thuyết nào đó. Trải qua bao thế kỷ, việc thu góp và tích lũy tài sản đã trở thành một lối sống, một chủ trương hợp tình hợp lý tại châu Âu và điều này đã đưa đến các hậu quả tai hại như chiến tranh, thù hận và bạo động xảy ra khắp nơi trên Thế Giới. Dù cho các nhà khoa học có biện luận thế nào chăng nữa, lương tâm họ cũng không thể yên ổn khi thấy công trình tâm huyết của họ đã được mang ra phục vụ cho những chính sách vô luân và phi nhân. Dĩ nhiên giá trị của những lý thuyết như vậy chẳng đáng kể gì và theo thời gian nó sẽ bị thay đổi bởi một lý thuyết khác. Trong khi đó những chân lý và tinh hoa của châu Á vẫn tiếp tục trường tồn. Nó tồn tại vì nó đáp ứng đúng những ước nguyện của con người và đúng với sự thật. Lịch sử cho thấy những đế quốc hùng mạnh nhất cũng chỉ tồn tại nhiều lắm là vài trăm năm trong khi những giá trị tinh thần kéo dài cả ngàn năm vàsẽ tiếp tục nhiều hơn thế nữa.
Chúng tôi tiếp tục bàn luận thêm về chi tiết nhưng tôi thấy chương trình cải cách của Hòa thượng khó có thể thành công. Giấc mộng thành lập một giáo hội Trung Hoa thống nhất rất khó thành tựu vì sự phân hóa của các tăng sĩ và sự nghi ngờ của chính quyền. Tinh thần Phật Giáo Trung Hoa đã suy vong từ lâu, có lẽ từ trước khi triều đại Mãn Thanh sụp đổ. Những bậc chân tu đạo hạnh, những người có thể hướng dẫn tín đồ càng ngày càng hiếm trong khi các kẻ buôn thần bán thánh thì càng ngày càng nhiều. Phật Giáo Trung Hoa giống như một cái cây đã bị đánh bật cả gốc rễ, các cành lá đang khô cằn chỉ chờ một mùa đông nữa là tàn úa. Tuy nhiên tinh hoa Phật Giáo, những mầm mống tốt đẹp được gieo trồng từ trước bởi những tăng sĩ thánh thiện, những cư sĩ dày công đức, sẽ tiếp tục phát huy khi có đủ nhân duyên. Biết đâu một ngày nào đó Phật Giáo Trung Hoa lại chẳng phát triển mạnh mẽ để đưa quốc gia này trở lại thuở thái bình thịnh trị như thời Nghiêu Thuấn ngày trước.
Sau cuộc gặp gỡ với Hòa thượng tại Nam Kinh ít lâu thì tôi được tin ngài qua đời. Mặc dù công trình chấn hưng Phật Giáo của ngài còn dang dở nhưng Hòa thượng Thái Hư vẫn xứng đáng được coi như một nhà cải cách lớn của Phật Giáo Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20.
Một lãnh tụ Phật Giáo khác nổi tiếng khi đó là Đại sư Hutukhutu, người lãnh đạo tinh thần của dân Mông Cổ. Khác với Phật Giáo Trung Hoa, giáo hội Mông Cổ được tổ chức chặt chẽ không khác giáo hội Tây Tạng. Đứng đầu giáo hội là một vị đại sư quyền hành tương tự như Đạt Lai Lạt ma của Tây Tạng. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay các vua chúa Mãn Thanh đã bắt vị này phải sống tại Bắc Kinh, một hình thức giam lỏng để khống chế người Mông Cổ. Đại sư Hutukhutu sống trong một ngôi Chùa rộng lớn, đẹp đẽ không xa cung điện nhà Mãn Thanh bao nhiêu. Trong các ảnh chụp mà tôi được thấy, ngài thường mặc quần áo may bằng gấm lụa sang trọng và đeo những đồ trang sức lộng lẫy không khác một vị hoàng đế. Là người lãnh đạo tinh thần, ngài nhận được nhiều phẩm vật cúng dường vô cùng quý giá và được hưởng các quyền lợi đặc biệt. Mỗi khi ngài đi đâu đều có tiền hô hậu ủng, có kiệu đưarước và quân sĩ hộ tống.
Khi chính phủ quân sự Trung Hoa lên cầm quyền thì họ thay đổi ngay thái độ với nhà lãnh đạo tinh thần bị giam lỏng này. Họ thẳng tay cướp phá ngôi Chùa lộng lẫy và đưa Đại sư Hutukhutu đến một ngôi Chùa khác, nhỏ bé, khiêm tốn hơn. Nhiều lần Đại sư xin phép được trở về Mông Cổ nhưng chính phủ Trung Hoatừ chối mặc dù họ không có lý do gì để giam giữ một người như vậy nữa.
Ngài sống một cách âm thầm, khiêm tốn cho đến khi Nhật Bản thành lập Mãn Châu quốc. Biết rõ tầm quan trọng và uy tín của ngài, họ đã phục hồi quyền hành cho ngài để lấy lòng dân Mông Cổ và đưa ngài ra Sơn Đông cùng với Hoàng đế Phổ Nghi. Tuy nhiên điều họ không ngờ là Đại sư lại tìm cách trốn về Trung Hoa. Ngài đã cải trang thành một người tùy tùng của Giáo sư Robert Winter, một học giả Hoa Kỳ chuyên nghiên cứu về Khổng học tại Bắc Kinh. Có người cho rằng ngài vẫn trung thành với chính phủ Bắc Kinh nhưng Giáo sư Robert Winter cho biết ngài làm vậy để tránh việc người Nhật lợi dụng danh nghĩa của ngài mà tuyển quân từ các bộ lạc Mông Cổ. Tuy nhiên chính phủ Trung Hoa chẳng cần biết đến điều đó. Họ cho phép ngài tạm trú tại một ngôi Chùa ở Nam Kinh nhưng chẳng cấp dưỡng gì cho ngài cả.
Khi tôi gặp Đại sư Hutukhutu tại Nam Kinh thì ngài đã già yếu rồi. Nhìn khuôn mặt đen đủi, gầy gò đầy những vết nhăn và thân hình còm cõi quấn trong bộ quần áo xanh đã bạc màu, người ta không thể tưởng tượng trước đó không lâu, vị Đại sư này đã từng sống trong nhung lụa không khác một vị vua xa hoa nhất. Tôi biết chính quyền địa phương đã đối xử tệ bạc với ngài. Có thể họ không biết ngài là ai hoặc không thèm để ý đến một nhân vật mà họ cho rằng không còn quan trọng nữa. Lúc đó nạn đói đang tràn lan khắp Trung Hoa, người chết nằm la liệt đầy đường và tôi không ngờ Đại sư Hutukhutu đã không có gì ăn trong nhiều ngày rồi. Để có thể nói chuyện một cách tự nhiên, tôi mời ngài đến một tiệm ăn và ngạc nhiên thấy ngài ăn rất khỏe. Lúc đầu tôi nghĩ có lẽ vì món ăn hợp khẩu vị, nhưng về sau tôi mới biết ngài đã đói nhiều ngày rồi.
Tuy bị ngược đãi như vậy nhưng ngài không hề tỏ ra oán hận chút nào. Ngài vui vẻ nói chuyện một cách thản nhiên, trên môi luôn luôn nở một nụ cười thoải mái. Ngài kể cho tôi nghe về cuộc đời trôi nổi của ngài một cách trầm tĩnh và ngỏ ý tiếc cho quốc gia này đã không biết áp dụng tinh thần Phật Giáo để xây dựng xã hội tốt đẹp mà lại đi vào vết chân của người Tây Phương. Ngài không tỏ ra cay đắng mà trái lại, hết sức lạc quan về kinh nghiệm đã trải qua:
– Phùng tiên sinh nên biết, ta rất may mắn được học hỏi về Giáo Pháp của Đức
Thế Tôn và có cơ hội để áp dụng nó trong cuộc đời. Khi sống trong nhung lụa, đeo những trang sức quý báu ta không thấy thích thú gì hơn khi phải mặc quần áo rách nát. Khi phải nhịn đói nhiều ngày ta cũng không thấy khác gì khi được ăn những món cao lương mỹ vị. Mặc dù mấy tuần nay không có cơm ăn ta vẫn không thấy khổ vì ta biết sống và tu trong mọi hoàn cảnh.
Nhìn khuôn mặt thoải mái rạng rỡ của ngài, tôi bùi ngùi cảm động. Khi sống trên Ngũ Đài Sơn, tôi đã thấy vị “Phật sống” Mông Cổ thiếu tư cách, thiếu đạo đức như thế nào thì nay tôi lại thấy một vị đại sư Mông Cổ với đầy đủ tác phong và đức hạnh như một vị thánh. Chúng tôi đàm đạo khá lâu và ngài ngỏ ý muốn được trở về Mông Cổ. Tuy nhiên tình trạng chiến tranh lúc đó không cho phép ngài trở về quê hương nên tôi đã thu xếp với Bộ Ngoại giao để đưa ngài qua tạm trú tại Hoa Kỳ. Tại đây ngài đã thành lập ngôi Chùa đầu tiên của người Mông Cổ trên đất Mỹ và giúp nhiều học giả Âu Mỹ nghiên cứu về truyền thống và phong tục của người Mông Cổ.
Ít năm sau, tôi có dịp đi ngang một khu chợ trời và thấy người ta bày bán một bộ quần áo hết sức lộng lẫy, gắn đầy những viên ngọc quý. Người bán đã đòi một giá hết sức cao vì đó là y phục của một vị vua nổi tiếng. Tò mò, tôi hỏi bộ áo quần đó của ai thì được trả lời rằng đó chính là bộ áo Đại sư Hutukhutu thường mặc khi sống ở Bắc Kinh. Tôi tiếc không có đủ tiền để mua bộ áo đó gửi biếu ngài như một kỷ niệm, nhưng tôi nghĩ có lẽ ngài đã quên những bộ quần áo đó rồi.
Công việc mới giúp tôi có phương tiện du lịch dễ dàng hơn trước. Sau khi làm
việc tại Nam Kinh một thời gian, tôi có dịp ghé qua Nga Mi, một ngọn núi thiêng nổi tiếng không thua Ngũ Đài Sơn bao nhiêu. Theo truyền thuyết, Nga Mi là nơi cư ngụ của Bồ tát Phổ Hiền tượng trưng cho những hạnh nguyện cũng như đức Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ. Phần lớn những bức tượng đều tạc đức Thích Ca ngồi giữa, một bên có đức Văn Thù cưỡi sư tử và bên kia có đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà. Voi sáu ngà là chúa loài voi, tượng trưng cho Lục Độ. Ngụ ý nói rằng Bồ tát Phổ Hiền có uy lực cứu vớt rất lớn, có thể phân thân khắp mười phương Thế Giới để cứu độ chúng sinh.
Nếu Ngũ Đài nằm trên cùng thảo nguyên thuộc khí hậu ôn đới thì Nga Mi chỉ có một đỉnh cao. Mặc dù có đến năm sáu ngôi Chùa rải rác quanh núi nhưng ngôi Chùa chính được xây cất chơ vơ trên tận đỉnh, muốn lên người ta phải leo những bậc thang bằng đá xây uốn quanh núi. Thông thường một người khỏe mạnh cũng phải mất cả ngày mới leo đến nơi. Không như Ngũ Đài Sơn nổi tiếng với những tu sĩ thánh thiện, Nga Mi Sơn được biết đến qua truyền thống đặc biệt về võ thuật. Tại sao các tu sĩ tại đây lại chuyên về võ thuật là điều tôi không thể hiểu.
Tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Hoa thường đề cao Nga Mi như một Trung tâm võ thuật với những tu sĩ có thể “bay” từ mái nhà này qua mái nhà khác, có thể thổi ra những thanh kiếm “vô hình” cắt đầu đối thủ trong chớp mắt. Tôi nghe nói nhiều thanh niên quá say mê những tiểu thuyết này, đã bỏ nhà tìm đến Nga Mi để xin học võ. Số phận các thanh niên này ra sao, không thấy ai nói đến, họ có được thu nhận hay không chúng tôi cũng không rõ. Trong thời gian ngắn ngủi tại Nga Mi, tôi không hề nhìn thấy các sư sãi tập luyện võ nghệ hay nhìn thấy dấu tích của một võ đường nào. Tôi chỉ thấy trên núi này có rất nhiều khỉ. Khách hành hương thường bị lũ khỉ này quấy nhiễu rất nhiều. Trên đường lên núi, khỉ lớn khỉ nhỏ kéo từng đàn ra khọt khẹt dọa nạt người đi. Chúng ăn cắp hoa quả, lễ vật của người hành hương hoặc nhiều lúc lấy trộm cả quần áo của họ rồi trèo lên những thân cây cao trên sườn núi. Đối với đàn ông khỏe mạnh chúng còn sợ, nhưng với những người già hay phụ nữ thì chúng không mấy khi tha cho ai. Có lúc chúng ném đá, có khi chúng nhảy kêu la om sòm. Tôi nghe kể một vị tướng lên thăm Chùa có mang theo một nàng hầu và bầy khỉ đã không chịu tha cho cô này. Nổi giận, vị tướng rút gươm chém con vật vô lễ kia. Chẳng dè bầy khỉ báo động cả đàn kéo cả trăm con đến bao vây đoàn người hành hương. Trước khí thế hung dữ của bầy khỉ, dù có vũ khí trong tay, những người hầu cận cũng không dám sử dụng cho đến khi một vị sư trong Chùa chạy đến dàn xếp. Có lẽ bầy khỉ nhận ra vị sư này nên chúng để ông vượt qua vòng vây. Ông đề nghị vị tướng nên thu hồi vũ khí lại và đem các lễ vật, hoa quả ra cho bầy khỉ ăn. Khi thức ăn này được ném ra,
bầy khỉ xúm lại tranh nhau ăn và đoàn người hành hương vội vãrút lui.
Phải mất hai ngày tôi mới lên đến đỉnh núi. Một màn sương trắng mờ mờ bao phủ quanh ngôi Chùa khiến không khí nơi đây đượm một vẻ huyền bí lạ lùng.
Tuy nhiên tôi không có nhiều thì giờ để xem xét phong cảnh vì đầu óc còn bận nghĩ đến Tạ Hải. Từ khi quân Nhật chiếm đóng Hồng Kông, tôi không nhận được tin tức gì về người bạn mà tôi coi như anh em ruột thịt này. Tin tức từ Hồng Kông cho thấy tình hình thành phố này rất bi đát. Nhiều người đãchết đói.
Số người bị lính Nhật nghi ngờ bắt thủ tiêu cũng nhiều. Lần này lên Nga Mi Sơn, ngoài lý do thăm viếng phong cảnh, tôi còn một lý do riêng nữa là cầu nguyện cho Tạ Hải.
Thông thường những người tu theo hạnh Bồ Tát thường lựa chọn một vị Bồ Tát nào đó thích hợp với mình để làm gương noi theo. Tôi biết Tạ Hải đã chọn
đức Phổ Hiền như một vị thầy hướng dẫn. Trong căn phòng làm việc của anh có để một bàn thờ đức Phổ Hiền, lúc nào cũng hương khói thơm ngát. Sáng nào Tạ Hải cũng tụng kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện và cố gắng theo đúng mười hạnh nguyện của ngài là Lễ kính chư Phật, Tán thán Như Lai, Cúng dường tất cả, Sám hối nghiệp chướng, Tủy hỷ công đức, Thỉnh Phật chuyển Pháp luân, Thỉnh Phật thường ở đời, Thường theo học Phật, Hằng thuận chúng sinh và Hồi hướng công đức. Nhiều năm nay Tạ Hải vẫn thường ao ước có thể đi hành hương tại núi Nga Mi nhưng công việc quá bận nên anh chưa có dịp hoàn tất tâm nguyện này. Lần này lên Nga Mi, tôi đã dành trọn một ngày trước bàn thờ đức Phổ Hiền để cầu nguyện cho Tạ Hải. Tôi không tin Bồ Tát là một vị thần ban phước cho những ai đến cầu xin ngài nhưng tôi chí tâm, chí thành hồi hướng công đức cho Tạ Hải với hy vọng rằng anh có đủ sức chịu đựng những khổ đau hay khó khăn trong giờ phút hiện tại. Tôi theo chân những người hành hương vừa đi vừa cầu nguyện quanh đỉnh núi để chí tâm hồi hướng công đức cho Tạ Hải. Có thể bạn đọc cho rằng tôi mê tín nhưng tôi tin rằng đây là một việc chính đáng. Tôi cẩn thận ghi tên Tạ Hải lên một mảnh giấy màu vàng rồi đưa cho vị sư trụ trì nhờ ngài làm lễ cầu an. Trước pho tượng của đức Phổ Hiền trong chánh điện, tôi cung kính quỳ xuống cầu nguyện cho người bạn thân được tai qua, nạn khỏi. Vì số người hành hương khá đông nên đa số mọi người chỉ ghé vào chánh điện để làm lễ một cách sơ sài, ít ai theo trọn cả khóa lễ. Tuy nhiên với tấm lòng chân thành, tôi đã quỳ tại đó trong nhiều giờ để cầu nguyện.
Đêm đó trong căn phòng nhỏ sau Chùa, tôi đã nghĩ rất nhiều về những chuyện đã xảy ra trong đời mình. Tôi đã trải qua những giờ phút êm đềm tại Hồng Kông, dưới sự hướng dẫn và khuyến khích của gia đình Tạ Hải. Tôi đã sống với Tạ ngũ thúc và học hỏi rất nhiều nơi ông trước khi bắt đầu một đời sống tự lập tại Bắc Kinh. Những người Trung Hoa đầy lòng nhân từ này đã đón nhận một người ngoại quốc xa lạ, một thanh niên mơ mộng viển vông vào gia đình họ, đối đãi như ruột thịt. Tiếc rằng hiện nay khi họ cần sự giúp đỡ của tôi thì tôi vẫn chưa làm được gì để đền đáp công ơn của họ.
Sáng hôm sau, trời đổ mưa nên tôi không có cơ hội chiêm ngưỡng một hiện tượng mà những người hành hương tại Nga Mi thường nói đến. Vào buổi đẹp trời, khi mặt trời vừa mọc, nếu đứng vào một vị trí nhất định sau Chùa nhìn xuống thung lũng phía dưới, người ta sẽ thấy ánh mặt trời phản chiếu sau rặng
núi thành hình ảnh một người đang ngồi Thiền mà những người hành hương cho rằng đó là hình ảnh của đức Phổ Hiền. Vẫn biết đó chỉ là cái bóng phản chiếu của rặng núi nhưng nếu có lòng tin mãnh liệt thì người ta có thể giải thích nó qua nhiều khía cạnh khác nhau. Khi hình ảnh này xuất hiện, tất cả những người hành hương đều quỳ xuống tụng kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhiều người phát nguyện sẽ noi gương đức Phổ Hiền, tu hạnh Bồ Tát để cứu độ chúng sinh.
Tôi trở về Nam Kinh được ít hôm thì bị thuyên chuyển đi công tác tại Trường Sa, một thành phố đang xáo trộn và không an ninh lắm. Lý do của việc thuyên
chuyển này vì sứ quán nhận được một bản báo cáo khá dài kể về hành vi của tôi tại núi Nga Mi. Một vài người ngoại quốc, trong đó có ba nhà truyền giáo, đã cho rằng việc một nhân viên ngoại giao quỳ gối trước một “ngẫu tượng” là một sỉ nhục lớn cho danh dự nước Anh. Bản báo cáo ghi chép đầy đủ chi tiết rằng tôi đã “cư xử như một người Trung Hoa”, đã đốt vàng mã trước bàn thờ đã đi vòng quanh Chùa đúng bảy lần, đã tham dự các nghi thức thờ ma cúng quỷ của dân tộc địa phương. Tôi bị gọi lên quở trách nặng nề và được chỉ thị tuyệt đối không được tái diễn “hành vi không thể chấp nhận” như thế nữa. Cho đến khi đó tôi mới ý thức được sự ràng buộc của các kỷ luật ngoại giao và sự thiếu tế nhị, thiếu hiểu biết của người Âu trên đất Trung Hoa.
Tôi đến làm việc tại Trường Sa dưới sự giám sát nghiêm mật của một nhân viên ngoại giao không có cảm tình với tôi. Có lẽ ông đã được nghe kể về tôi nên thường tỏ ra khó chịu vì sự giao thiệp thân mật giữa tôi và những người dân bản xứ.
Ngay khi tôi vừa trình sự vụ lệnh, ông đã lạnh lùng cho biết nếu tôi còn tái phạm một lần, và chỉ một lần thôi, thì tôi sẽ bị cách chức ngay. Công việc tại đây hết sức tẻ nhạt vì suốt ngày tôi phải phiên dịch những hồ sơ vừa dài vừa khô khan. Có lẽ người ta đã cố tình thu xếp cho tôi một chân “cạo giấy” như một hình thức trừng phạt. Ngoài ra tôi được lệnh nếu không cần thiết thì phải hạn chế việc giao thiệp với người Trung Hoa đến mức tối đa. Suốt mấy tháng làm việc dưới sự kiểm soát của những người mà tôi không ưa đã giúp tôi hiểu được ý nghĩa của câu “ái biệt ly, oán tằng hội” (người yêu phải xalìa, kẻ ghét thường gặp gỡ).
Một hôm chúng tôi có việc phải đi ngang qua một ngôi Chùa ở đầu tỉnh, tôi cố ý đi chậm lại vừa để xem cảnh Chùa vừa để nghe tiếng kinh trầm trầm vang lên.
Bất chợt tôi nhìn thấy một vị sư quen thuộc đang từ trong Chùa bước ra: Hòa thượng Ninh Hải. Vì chúng tôi đi ngang qua cửa Chùa nên chắc Hòa thượng cũng nhận ra tôi. Ngài đứng lại chăm chú nhìn tôi và mỉm cười. Theo đúng phong tục Trung Hoa, tôi phải quỳ xuống làm lễ ra mắt bằng nghi thức khấu đầu đúng ba lần vì dù sao ngài cũng là một vị thầy có công hướng dẫn tôi tại Ngũ Đài Sơn. Tôi bối rối không biết phải xử trí ra sao. Nếu vi phạm kỷ luật, người bạn đồng nghiệp chắc chắn sẽ không bỏ qua, nhưng tôi cũng không thể lạnh lùng bước đi mà không nói gì. Đã mấy năm không gặp, tôi thấy Hòa thượng già yếu hơn trước nhiều, lưng ngài còng hẳn xuống, bước đi không còn vững nên ngài phải chống gậy. Lòng tôi dường như tan nát. Tôi định bỏ qua tất cả mọi sự để nhào đến trước mặt ngài làm lễ ra mắt nhưng ngay trong giây phút đó bỗng ngài thản nhiên chống gậy bước trở vào Chùa. Tôi đứng sững chưa kịp phản ứng thì người bạn đồng nghiệp đã lên tiếng: “Này, đi nhanh lên chứ! Chúng ta còn phải đến dinh quan tỉnh trưởng cho kịp giờ hẹn. Cái lão già này khó tính lắm, đến chậm một chút là lão cằn nhằn liền”. Tôi bước đi và chợt hiểu câu nói lạ lùng mà Hòa thượng Ninh Hải đã tiên tri: “Chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau nhưng ta sợ rằng khi đó con sẽ không dám nói chuyện với ta nữa”.
Tôi đến dinh tỉnh trưởng làm việc nhưng đầu óc cứ quay cuồng về mặc cảm tội lỗi này. Liệu Hòa thượng có buồn về thái độ của tôi không? Làm sao tôi có thể hành động như thế được? Phải chăng bây giờ tôi đã khác ngày trước, tôi đã là một nhân viên ngoại giao của Hoàng gia Anh nên không thể khấu đầu trước một người Trung Hoa được nữa?
Ngày hôm sau tôi có việc phải rời Trường Sa. Khi trở lại tôi đã thu xếp công việc để có thể đến thăm ngài tại ngôi Chùa kia nhưng người ta cho biết Hòa thượng đã di tản đi nơi khác rồi. Tôi đã tìm đủ mọi cách để liên lạc với ngài nhưng vô hiệu. Trong tình trạng chiến tranh, hàng triệu người di tản tứ tung, làm gì có địa chỉ để liên lạc.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet