Đệ tửBí Kíp Thiền TôngPhật Tử

Cư sỹ: Cấp Cô Độc

Thiền Tông phổ biến tại Chùa Thiền Tông Tân Diệu, được Nhà sưu tầm Thiền học Phật giáo là soạn giả Nguyễn Nhân góp nhặt lại, biên soạn và viết ra thành 12 quyển sách nói về Pháp môn tu Thiền Tông, được những Người trong và ngoài nước đọc… Để hiểu thêm phần nào những việc liên quan được nhắc đến trong Pháp môn Thiền Tông về cuộc đời của: Đức Phật, Giáo đoàn và Đệ tử của Ngài, qua tham khảo một số bài viết dưới đây.  Xin trân trọng giới thiệu.

  Thiền Tông    Videos    Sách   Giải đáp   Album

✍️ Mục lục: Đức Phật, Giáo đoàn và Đệ tử của Ngài

Cư sỹ Cấp Cô Độc 

⭐️ Cấp Cô Độc Trưởng giả – Đức Chúa Ông hộ Pháp chốn Già Lam

Cấp Cô Độc Trưởng giả tên thật là Tu Đạt Đa. Ông sinh ra ở nước Xá vệ, vào thời của Đức Phật. “Cấp” nghĩa là bố thí, cho nên “Cấp Cô Độc” còn được hiểu là cung cấp, bố thí cho những người nghèo khổ, cô độc, không nơi nương tựa.

Đây là một mỹ danh mà hậu thế đặt ra để vinh danh Trưởng giả Tu Đạt Đa.

Trưởng giả Cấp Cô Độc nổi tiếng trong Phật Pháp, bởi điển tích dùng vàng mua lại khu vườn Thắng Lâm của Thái tử Kỳ Đà để xây dựng Tinh xá cúng dường Tam Bảo. Nhờ nơi phước đức cúng dường vô tiền khoáng hậu này, Trưởng giả được sanh lên cõi Đâu Suất Đà Thiên.

Đâu Suất Thiên gồm Nội viện và Ngoại viện. Ngoại viện dành cho thiên chúng, còn nội viện là nơi của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát ở. Đức Thích Ca trước khi giáng sanh cũng ở Nội viện Đâu Suất. Còn hiện tại Nội viện Đâu suất là nơi Đức Di Lặc đang giảng Pháp, chờ ngày hạ sanh Thành Từ Thị Như Lai.

Ở hầu hết các chùa Bắc Tông của Việt Nam, hình tượng của Cấp Cô Độc luôn luôn được thờ cúng trong chánh điện: Ngài chính là Đức Chúa Ông vậy.

⭐️ Cấp Cô Độc và điển tích Thái tử Kỳ Đà

“…Có lần, Cấp Cô Độc đến thành Vương Xá, vào nhà một ông Trưởng giả thân thuộc. Nhìn thấy vị ấy đang nấu nướng, chuẩn bị cho một buổi tiệc rất lớn với những thức ăn rất ngon, ông thắc mắc không biết ngày mai nhà này có đám cưới, hay tổ chức lễ hội gì, hay mời vua quan đến đãi tiệc mà làm cỗ lớn như vậy.

Cấp Cô Độc bèn hỏi ông Trưởng giả. Ông ta nói rằng nhà vốn không có đám cưới, không tổ chức lễ hội, cũng không mời vua quan đến đãi tiệc gì cả mà đang chuẩn bị thức ăn để ngày mai dâng cúng Đức Phật và chư Tăng.

Nghe xong Cấp Cô Độc rất thắc mắc, không hiểu Đức Phật là người thế nào mà được chuẩn bị một cỗ bàn thịnh soạn như vậy. Cấp Cô Độc đem điều đó hỏi vị Trưởng giả thì được đáp rằng: “Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Sau khi giác ngộ thế gian vô thường, thân người giả tạm, Thái tử đã từ bỏ vợ đẹp con xinh, cung vàng điện ngọc, vào rừng tầm chân lý. Sau một thời gian tu học, ngày nay, Ngài đã đắc quả và độ rất nhiều đệ tử”.

Nghe xong, Cấp Cô Độc phát khởi lòng tin thanh tịnh, vô cùng kính ngưỡng Đức Phật. Xưa nay, chưa bao giờ Cấp Cô Độc nghe kể về một con người lạ kỳ như thế. Trong khi mọi người, ai cũng hướng đến mục đích có nhiều tiền, có địa vị, làm sao cho mình được đầy đủ, sung sướng, ấm no, giàu sang, hạnh phúc, Thái tử Tất-đạt-đa lại từ bỏ tất cả để xuất gia tìm đạo.

Cấp Cô Độc hỏi ông Trưởng giả: “Bây giờ Đức Phật ở đâu?”

Ông Trưởng giả nói: “Ngài đang ở Tinh xá Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đa”.

Cấp Cô Độc quyết định đến đảnh lễ Đức Phật.

Tối hôm đó, vì tâm mong muốn được gặp Đức Phật, Cấp Cô Độc không thể ngủ ngon giấc. Chợp mắt một chút, tưởng trời sáng rồi, ông giật mình tỉnh dậy, nhưng thấy trời vẫn còn tối, nên lại ngủ tiếp. Ba lần như vậy. Lần thứ ba, thấy trời đã tờ mờ sáng, ông liền đi đến Trúc Lâm.

Lúc ông đến nơi, Đức Phật đang kinh hành. Nhìn thấy dung mạo uy nghi của người đang kinh hành, Cấp Cô Độc biết chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông đến đảnh lễ rồi thỉnh cầu Đức Phật nói Pháp.

Sau khi nghe Pháp từ Đức Phật, như người đói được ăn, người khát được uống, Cấp Cô Độc cảm thấy rất sung sướng. Những lời Đức Phật dạy từ xưa đến giờ chưa ai nói cho ông nghe, ngày hôm nay ông mới được nghe, và những lời dạy đó quả thật lợi ích, đưa con người đến chỗ an lạc, hạnh phúc, không những hiện đời mà cả đời sau. Với nhận thức như thế, ông liền phát tâm xin quy y Đức Phật và Ngài đã hoan hỷ quy y cho ông.

Sau đó, Cấp Cô Độc nghĩ đến người dân ở nước Xá-vệ của mình, xưa nay chưa biết Phật Pháp, nên muốn cung thỉnh Đức Phật về Xá-vệ, trước là để an cư ba tháng mùa mưa, sau là để truyền bá Phật Pháp cho dân chúng. Cấp Cô Độc đem nguyện vọng đó thưa với Đức Phật.

Ngài hỏi: “Hiện tại, trong Tăng đoàn, số lượng chư Tăng rất đông, không biết ở Xá-vệ có nơi nào cho chư Tăng cư trú hay không?”

Cấp Cô Độc thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, con sẽ cố gắng xây dựng một Tịnh xá để thỉnh Ngài và chư Tăng về an cư và hoằng Pháp”.

Đức Phật rất hoan hỷ. Sau khi sắp xếp công việc riêng tư, Cấp Cô Độc trở về Xá-vệ. Được sự cho phép của Đức Phật, Xá-lợi-phất cũng đi theo ông để chuẩn bị cho việc xây dựng Tinh xá.

Về Xá-vệ, Cấp Cô Độc đi tìm rất nhiều nơi, cuối cùng, ông thấy một khu vườn rất đẹp của Thắng Lâm Đồng Tử, tức Thái tử Kỳ Đà. Cấp Cô Độc liền đến gặp Thái tử Kỳ Đà để hỏi mua. Dù ông hỏi nhiều lần nhưng Thái tử vẫn không chịu bán. Cuối cùng, Thái tử nói rằng sẽ bán cho Cấp Cô Độc nếu ông có thể đem vàng trải đầy khu vườn.

Thái tử nói như thế là để Cấp Cô Độc không nài nỉ mua nữa, nhưng không ngờ ông lại đồng ý. Như vậy, giữa hai người có sự bất đồng, một người chỉ nói chơi, nhưng một người lại mua thật. Chuyện này phải đưa ra nhờ các quan xét xử, cuối cùng, phần thắng nghiêng về phía Cấp Cô Độc, bởi thân là Thái tử không thể nói hai lời, ra điều kiện như vậy, người ta đã chấp nhận thì bắt buộc phải bán.

Sau đó, Cấp Cô Độc cho người về nhà mang vàng ra trải đầy khu vườn của Thái tử Kỳ Đà.

Trong khi gia nhân đã trải tiền gần hết khu vườn, Cấp Cô Độc đứng trầm ngâm suy nghĩ.

Thấy vậy, Thái tử Kỳ Đà liền nói: “Nếu ông thấy đắt quá thì thôi, ông thu tiền về đi và trả đất lại cho tôi”.

Cấp Cô Độc nói: “Tôi đang suy nghĩ xem số tiền còn lại sẽ lấy ở kho nào”.

Lúc đó Thái tử Kỳ Đà thắc mắc, không hiểu Đức Phật là người như thế nào mà ông Trưởng giả Cấp Cô Độc này dám bỏ ra một số tiền lớn như thế để mua đất, xây dựng Tinh xá, cúng dường cho Ngài. Tự nhiên, Thái tử phát khởi lòng tin, lòng tôn kính đối với Đức Phật.

Thái tử nói: “Thôi như thế này đi, khoảng đất còn lại hãy để cho tôi, tôi sẽ cúng dường Đức Phật. Tôi sẽ xây một cái cổng tại đây”.

Sau khi mua khu đất, Cấp Cô Độc kết hợp cùng Ngài Xá-lợi-phất xây dựng một ngôi Tinh xá, gọi là Tinh xá Kỳ Viên hay Tinh xá Kỳ Hoàn.” (Cư sĩ Cấp Cô Độc)

⭐️ Kinh Giáo giới Cấp Cô Độc: Kinh Trung Bộ

Dưới đây là bản Kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, là bản kinh ghi lại việc Trưởng giả Tu Đạt Đa vãng sanh về Cõi Đâu Suất Đà Thiên

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Xá-vệ, Kỳ Đà Lâm, tại Tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Lúc bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi Cư sĩ Cấp Cô Ðộc gọi một người:

– Hãy đến đây, này Bạn. Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả Xá-lợi-phất, sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Xá-lợi-phất và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Xá-lợi-phất và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Xá-lợi-phất vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của Cư sĩ Cấp Cô Ðộc”.

– Thưa vâng, Tôn giả.

Người ấy vâng đáp Cư sĩ Cấp Cô Ðộc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.

Rồi người ấy đi đến Tôn giả Xá-lợi-phất, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Xá-lợi-phất rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa với Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Thưa Tôn giả, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Xá-lợi-phất và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, tốt lành thay, nếu Tôn giả Xá-lợi-phất vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của Cư sĩ Cấp Cô Ðộc”.

Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y, cầm y bát, cùng với Tôn giả A Nan là thị giả, đi đến trú xứ của Cư sĩ Cấp Cô Ðộc, sau khi đến liền ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Cư sĩ Cấp Cô Ðộc.

– Này Cư sĩ, ta mong rằng Ông có thể kham nhẫn; Ta mong rằng Ông có thể chịu đựng. Ta mong rằng khổ thọ được giảm thiểu, không gia tăng, sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng.

– Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, ví như một người lực sĩ chém đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu con. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết chặt; cũng vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con cảm thấy bị đau đầu một cách kinh khủng. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của con.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân con.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những thống khổ của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.

– Do vậy, này Cư sĩ hãy học tập như sau: ” Tôi sẽ không chấp thủ con mắt, và tôi sẽ không có thức y cứ vào con mắt”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ tai, và tôi sẽ không có thức y cứ vào tai”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ mũi… y cứ vào mũi… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ lưỡi… y cứ vào lưỡi…. hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ thân… y cứ vào thân… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ ý… y cứ vào ý… hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ hình dạng, và tôi sẽ không có thức y cứ vào hình dạng”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ tiếng… y cứ vào tiếng… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ hương… y cứ vào hương… hãy học tập như vậy. Do vậy…. không chấp thủ vị… y cứ vào vị… hãy học tập như vậy. Do vậy… không chấp thủ xúc… y cứ vào xúc… hãy học tập như vậy. Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ Pháp, và tôi sẽ không có thức y cứ vào Pháp”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ nhãn thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào nhãn thức”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ thức… Tôi sẽ không chấp thủ tỷ thức… Tôi sẽ không chấp thủ thiệt thức… Tôi sẽ không chấp thủ thân thức… Tôi sẽ không chấp thủ ý thức, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý thức”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ nhãn xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào nhãn xúc”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ nhĩ xúc… Tôi sẽ không chấp thủ tỷ xúc… Tôi sẽ không chấp thủ thiệt xúc… Tôi sẽ không chấp thủ thân xúc.. Tôi sẽ không chấp thủ ý xúc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào ý xúc”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ thọ do nhãn xúc sanh khởi, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do nhãn xúc sanh khởi”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ thọ do nhĩ xúc sanh khởi… Tôi sẽ không chấp thủ thọ do tỷ xúc sanh khởi… Tôi sẽ không chấp thủ thọ do thiệt xúc sanh khởi… Tôi sẽ không chấp thủ thọ do thân xúc sanh khởi… Tôi sẽ không chấp thủ thọ do ý xúc sanh khởi và tôi sẽ không có thức y cứ vào thọ do ý xúc sanh khởi”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ địa giới, và tôi sẽ không có thức y cứ vào địa giới”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ thủy giới… Tôi sẽ không chấp thủ hỏa giới… Tôi sẽ không chấp thủ phong giới… Tôi sẽ không chấp thủ hư không giới… Tôi sẽ không chấp thủ thức giới, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thức giới”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ sắc, và tôi sẽ không có thức y cứ vào sắc”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ thọ… Tôi sẽ không chấp thủ tưởng… Tôi sẽ không chấp thủ hành… Tôi sẽ không chấp thủ thức và tôi sẽ không có thức y cứ vào thức giới”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ Hư không vô biên xứ, và tôi sẽ không có thức y cứ vào Hư không vô biên xứ”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ Thức vô biên xứ… Tôi sẽ không chấp thủ Vô sở hữu xứ… Tôi sẽ không chấp thủ Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tôi sẽ không có thức y cứ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ thế giới ở đây và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới ở đây”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy. Do vậy… “Tôi sẽ không chấp thủ thế giới khác, và tôi sẽ không có thức y cứ vào thế giới khác”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau: “Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các Pháp (nói trên)”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

⭐️ Khi nghe nói vậy, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc khóc và chảy nước mắt. Rồi Tôn giả A Nan nói với Cư sĩ Cấp Cô Ðộc:

– Này Cư sĩ, Ông đang gượng lên mà sống, hay chìm xuống (cõi chết)?

– Thưa Tôn giả A Nan, con không gượng lên mà sống, con đang chìm xuống cõi chết. Dầu cho bậc Ðạo sư được con hầu hạ đã lâu và dầu con đã từng gần gũi các vị Tỷ kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời thuyết Pháp như vậy.

– Này Cư sĩ, thuyết Pháp như vậy không nói cho các hàng Cư sĩ mặc áo trắng. Này Cư sĩ, thuyết Pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.

– Vậy thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, hãy thuyết Pháp như vậy cho hàng Cư sĩ mặc áo trắng. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, có những Thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe Pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu được nghe, họ có thể biết được Chánh Pháp.

⭐️ Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A Nan sau khi giảng dạy cho Cư sĩ Cấp Cô Ðộc với bài thuyết giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Cư sĩ Cấp Cô Ðộc, sau khi Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A Nan ra đi không bao lâu, thân hoại mạng chung, và sau khi thân hoại mạng chung liền sanh lên cõi Ðâu suất thiên.

Rồi Thiên tử Cấp Cô Ðộc, khi đêm đã gần mãn, sau khi chói sáng toàn cảnh rừng Kỳ Đà với dung sắc thù thắng đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Ðộc nói lên với Thế Tôn bài Kệ sau đây:

Rừng Kỳ Đà,

Tốt đẹp phước lành này,

Ðược chư Thiên, chúng Tăng,

Thường lui tới an trú,

Ðược Pháp Vương trú trì,

Ban hoan hỷ cho ta.

Nghiệp, minh và Chánh Pháp,

Giới, tối thượng sanh mạng,

Chính nhờ các Pháp trên,

Khiến chúng sanh thanh tịnh,

Không phải do giai cấp,

Không phải do tài sản.

Do vậy bậc Hiền giả,

Thấy rõ mục đích mình,

Suy tư Pháp chân chánh,

Ðược thanh tịnh ở đây.

Như Xá-lợi-phất,

Về tuệ, giới, tịch tịnh,

Bất luận Tỷ kheo nào,

Ðã tới bờ bên kia,

Hãy đạt được tối thắng

Trong những Pháp kể trên.

Thiên tử Cấp Cô Ðộc nói như vậy. Bậc Ðạo sư tán đồng. Rồi Thiên tử Cấp Cô Ðộc suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư tán đồng ta.” Sau khi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.

⭐️ Rồi Thế Tôn, khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ kheo:

– Này các Tỷ kheo, đêm nay, một vị Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, chiếu sáng toàn cảnh rừng Kỳ Đà với dung sắc thù thắng đã đi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy nói lên với Ta bài Kệ sau đây:

Rừng rừng Kỳ Đà,

Tốt đẹp phước lành này,

Ðược chư Thiên, chúng Tăng,

Thường lui tới an trú,

Ðược Pháp Vương trú trì,

Ban hoan hỷ cho ta.

Nghiệp, minh và Chánh Pháp,

Giới, tối thượng sanh mạng,

Chính nhờ các Pháp trên,

Khiến chúng sanh thanh tịnh,

Không phải do giai cấp,

Không phải do tài sản.

Do vậy bậc Hiền giả,

Thấy rõ mục đích mình,

Suy tư Pháp chân chánh,

Ðược thanh tịnh ở đây.

Như Xá-lợi-phất,

Về tuệ, giới, tịch tịnh,

Bất luận Tỷ kheo nào,

Ðã tới bờ bên kia,

Hãy đạt được tối thắng

Trong những Pháp kể trên.

Nói vậy xong, này các Tỷ kheo, vị Thiên tử ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư tán đồng ta” sau khi đảnh lễ thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ. Khi được nghe nói vậy, Tôn giả A Nan bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, có phải vị ấy là Thiên tử Cấp Cô Độc chăng? Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Ðộc có lòng tịnh tín bất động đối với Tôn giả Xá-lợi-phất.

– Lành thay, lành thay, A Nan! Những gì có thể thành đạt được bởi suy tư đã được đạt đến, này A Nan. Chính Cấp Cô Ðộc là vị Thiên tử ấy, không một ai khác.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả A Nan hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Nguồn: Tổng hợp


Cư sĩ CẤP CÔ ĐỘC

(Anathapindada – Anathapindika)
(Vị thí chủ quan trọng nhất của giáo đoàn thời đức Phật)

Cấp Cô Độc là một vị trưởng giả triệu phú ở kinh đô Xá Vệ của vương quốc Kiều Tát La, miền Bắc Ấn Độ. Ông trên thật là Tu Đạt (Sudatta), vì thường hay chu cấp giúp đỡ cho những kẻ khốn khó, cô đơn, danh tiếng vang lừng cả vương quốc, cho nên mọi người đã kính mến và tặng cho ông biệt hiệu là Cấp Cô Độc, có nghĩa là “người cứu giúp kẻ nghèo khó và cô độc”. Ông có vợ và bốn con, ba gái đầu và một trai út.

Tu Đạt có người anh vợ là một thương gia giàu có ở tại thành Vương Xá. Mỗi khi có việc sang đây, ông đều trú tại nhà người anh vợ này. Một hôm đến đây, Tu Đạt thấy ông anh vợ đang bận rộn tíu tít sửa soạn một bữa tiệc lớn cho ngày mai. Ông hỏi thăm thì người anh vợ nói:

– Ngày mai anh cung thỉnh Phật và chư vị tì kheo đệ tử của Ngài đến thọ trai tại nhà.

Mới nghe tiếng “Phật” từ chính miệng ông anh vợ nói ra. Tu Đạt bỗng thấy lòng nảy sinh niềm hứng thú lạ thường. Ông yêu cầu người anh vợ nói thêm rõ ràng về bậc giác ngộ cho ông nghe. Nhân cơ hội đó, người anh vợ đã nói cho Tu Đạt biết về tư cách, đức độ và trí tuệ siêu việt của đức Phật. Chính ông đã được nghe Phật nói pháp và được làm đệ tử tại gia của Ngài. Ông cũng đã được Ngài cho phép dựng lên sáu mươi am thất nhỏ rải rác trong tu viện Trúc Lâm để cúng dường chư tăng.

Thật là một cơ duyên mầu nhiệm! Khi nghe được những điều đó Tu Đạt cảm thấy sung sướng vô cùng, tỏ lòng kính ngưỡng ngay đối với đức Phật. Nghĩ rằng, chỉ qua một đêm nay thôi, ngày mai là mình sẽ có cơ hội quí báu được gặp Phật ngay tại căn nhà này, ông rất vui và yên chí đi ngủ. Tưởng rằng sẽ được ngủ ngon giấc, nhưng không, suốt đêm đó ông đã không ngủ được, lòng cứ nôn nao, mong cho trời mau sáng để được gặp Phật. Ông vùng dậy đến ba lần vì tưởng trời đã sáng, nhưng mà màn đêm vẫn cứ còn dầy đặc. Cuối cùng, không thể chờ đợi được, ông thức dậy hẳn. Dù trời chưa sáng, ông vẫn nhất quyết đến Trúc Lâm để tìm gặp Phật. Khi ông vào đến khuôn viên tu viện thì trời tờ mờ sáng. Dù lòng đang nôn nóng, nhưng ông cũng đang cảm thấy e ngại. Bỗng nhiên ông nghe có tiếng người gọi đích danh ông: “Tu Đạt!” Nhìn thẳng trước mặt, ông thấy một người, và linh tính báo cho ông biết, người đó chính là đức Phật. Đúng vậy, đó chính là đức Phật, lúc đó Ngài đang đi thiền hành ngoài trời. Khi thoáng thấy có người đi tới, Ngài đã biết ngay đó là Tu Đạt! Ông tỉnh người, tiến tới một bước. Một cách nghiêm trang và thành kính, ông chắp tay đảnh lễ Ngài. Ông tự giới thiệu mình và kể cho Phật nghe tâm trạng của ông từ hôm qua đến giờ, rồi xin Phật dạy cho ông về đạo lí. Đó là một buổi sáng tại tu viện Trúc Lâm, sau khi mùa an cư lần thứ ba của Phật chấm dứt.

Sau khi nghe bài pháp đầu tiên, tâm ông bừng sáng. Ông vui sướng đảnh lễ và xin Phật nhận cho ông được làm đệ tử tại gia của Ngài. Phật hoan hỉ chấp nhận. Khi đức Phật hướng dẫn chư tăng đến thọ lễ cúng dường tại nhà người anh vợ của ông, ông cũng thỉnh Phật và chư tăng ngay ngày hôm sau đến đây để thọ lễ trai tăng do chính ông cúng dường. Trong lễ trai tăng này, Tu Đạt đã thành khẩn thỉnh cầu Phật và chư tăng sang Xá Vệ, quê hương ông, để truyền bá chánhh pháp. Ông phát nguyện sẽ kiến lập một ngôi tu viện lớn tại kinh thành Xá Vệ để cúng dường Phật và giáo đoàn làm cơ sở tu học và hành đạo tại vương quốc Kiều Tát La.

Lời thỉnh cầu trên đã được Phật hứa khả. Ông liền trở về Xá Vệ để tìm địa điểm xây cất tu viện. Ông đã đi quan sát nhiều nơi chung quanh kinh thành, nhưng đều không ưng ý. Bấy giờ, thái tử Kì Đà (Jeta) của nước Kiều Tát La, có một khu vườn cây nằm sát kinh thành, do vua cha là Ba Tư Nặc (Prasenajit – Pasenadi) (1) ban cho. Nơi đó rộng rãi, thanh tịnh, phong cảnh tươi đẹp, u nhã, thật là một địa điểm thích hợp để lập tu viện. Cư sĩ Tu Đạt vừa ý lắm, bèn vào hoàng cung xin gặp thái tử để thương lượng mua lại. Gặp thái tử, ông trình bày ước muốn của mình là được mua khu vườn cây của thái tử để xây cất tu viện cúng dường đức Phật và giáo đoàn của Ngài, làm cơ sở tu học và hoằng pháp. Thái tử nói đùa:

– Khu vườn ấy là của phụ hoàng cho tôi. Tôi quí nó như vàng. Nếu ông có thể đem vàng ròng trải kín đầy mặt đất khắp khu vườn thì tôi mới chịu bán nó cho ông.

Nhưng Tu Đạt thì cho đó là lời nói nghiêm túc, bèn trả lời:

– Thưa vâng. Sáng mai tôi sẽ chở vàng tới và làm đúng theo điều kiện của thái tử vừa đưa ra.

Thật là bất ngờ! Thái tử giật mình kinh ngạc:

– Tôi chỉ nói đùa thôi mà, chứ khu vườn đó tôi không muốn bán đâu. Ông đừng chở vàng tới!

Nhưng trưởng giả vẫn nghiêm trang:

– Thưa thái tử! Ngài là bậc vương giả. Ngài đã nói điều gì thì điều ấy không thể chối bỏ được.

Thái tử đành nhượng bộ, nhưng trong lòng vẫn mong cho Tu Đạt không có đủ vàng để ông khỏi mất khu vườn. Không để cho thái tử có thì giờ nói thêm lời gì, Tu Đạt vội vã cáo từ.

Sáng hôm sau, khi thái tử ra đến khu vườn thì đã thấy vàng của Tu Đạt đã chở tới rồi, và gia nhân của ông đang lót vàng trên mặt đất vườn. Thái tử chứng kiến cảnh tượng lót vàng mà càng lúc càng cảm thấy kì lạ. Thái tử linh cảm đây không phải là chuyện bình thường. Ông trưởng giả chịu bỏ ra từng đống vàng một cách không tiếc rẻ để chỉ mua một khu vườn cây chỉ giá trị giải trí chứ không có lợi tức gì thiết thực cả như thế này, thực ra là vì chuyện gì? Như vậy, con người mà ông trưởng giả gọi là “Phật” đó, chắc chắn phải là một nhân vật ghê gớm lắm! Lúc ấy vàng đã được trải gần kín hết khu vườn, và Tu Đạt thì đang đứng nhìn những gốc cây có vẻ tư lự. Thái tử đến vỗ vai Tu Đạt, hỏi:

– Ông đang suy nghĩ gì mà không tiếp tục lót cho hết vàng? Ông muốn thay đổi ý kiến chăng?

Tu Đạt giật mình, vội trả lời:

– Không phải vậy, tôi đang suy nghĩ xem làm sao mà trải vàng lấp được những gốc cây. Khó quá!

Rồi thái tử xin ông nói cho nghe về đức Phật và giáo đoàn của Ngài, xem có gì đặc biệt. Mắt Tu Đạt bỗng sáng lên vì hãnh diện. Ông bắt đầu nói về tư cách, đạo đức và trí tuệ vượt bậc của Phật, về giáo pháp mà Phật đã dạy cho ông, và về đời sống thanh cao, phạm hạnh của giáo đoàn. Thaí tử nghe những điều ông nói, cũng cảm thấy hứng khởi trong lòng, liền đề nghị:

– Thôi, lót vàng như thế cũng đủ rồi, đừng suy nghĩ nữa. Thẻo đất trống còn lại, và tất cả cây trong vườn, tôi xin cúng dường Phật, gọi là xin đóng góp chút ít vào công trình cao đẹp của ông. Cứ coi như là ông cúng đất và tôi cúng cây để xây tu viện. Được một người như thái tử thấu hiểu và thật tâm ủng hộ mình, Tu Đạt hân hoan không xiết kể. Từ đó, khu vườn được gọi tên là “Vườn Cấp Cô Độc với cây của Kì Đà”.

Thế là địa điểm đã có, cư sĩ Tu Đạt lập tức trở lại thành Vương Xá để trình lên Phật biết, và xin Phật ban cho ý kiến về việc xây cất tu viện. Đức Phật đã phái tôn giả Xá Lợi Phất cùng đi Xá Vệ với Tu Đạt để trông nom công việc xây cất.

Đến Xá Vệ, tôn giả Xá Lợi Phất trú ngay tại khu vườn cho tiện việc điều động công tác. Buổi tối tôn giả thường nói pháp ngay tại khu vườn. Số người nghe pháp ngày càng đông, Phật chưa đến mà Phật pháp đã được dân chúng hâm mộ.

Bốn tháng sau thì công tác kiến thiết hoàn tất. Tu viện có tịnh thất của Phật, có tăng, xá, thiền đường, giảng đường, nhà dưỡng bệnh, nhà tắm, hồ nước, đường thiền hành v.v… coi như là đầy đủ tiện nghi, và có vẻ bề thế hơn cả tu viện Trúc Lâm. Tu viện được gọi bằng nhiều tên: Kì Viên, Kì Hoàn, Cấp Cô Độc, hay Kì Thọ Cấp Cô Độc.

Tôn giả Xá Lợi Phất trở về Vương Xá thỉnh Phật và tăng chúng sang Xá Vệ. Trong khi đó, cư sĩ Cấp Cô Độc và thái tử Kì Đà thì lo chuẩn bị mọi thứ hoàn hảo để nghênh đón Phật và giáo đoàn.

Trong thời gian cư trú tại Xá Vệ vừa qua, tôn giả Xá Lợi Phất đã bị hàng trăm vị luận sư trứ danh của ngoại đạo thách thức tranh luận. Với trí tuệ và tài hùng biện, tôn giả đã khuất phục tất cả và đưa họ vào con đường chánh pháp. Những ngày trước đây, câu chuyện về “trưởng giả Tu Đạt không tiếc vàng bạc, đã mua vườn cây của thái tử Kì Đà xây tu viện cúng dường cho bậc giác ngộ và giáo đoàn của Ngài sẽ tới từ vương quốc Ma Kiệt Đà”, đã được lan rộng trong dân chúng thủ đô Xá Vệ; bây giờ lại thêm câu chuyện “một vị đệ tử của bậc giác ngộ đã tranh luận chiến thắng cả trăm vị luận sư trứ danh Bà la môn”, lại càng làm cho dân chúng hân hoan đón nhận một tôn giáo mới; và cư sĩ Tu Đạt, nhờ đó mà tín tâm đối với Phật pháp càng thêm sâu đậm, sắt đá, khó có gì lay chuyển nổi. Bởi vậy, ngày mà đức Phật dẫn giáo đoàn tiến vào thủ đô Xá Vệ, dân chúng trong thành đã tự động cùng đi theo cư sĩ Tu Đạt và thái tử Kì Đà, đón rước Phật thật linh đình, như là ngày hội lớn của kinh đô.

Cư sĩ và thái tử hướng dẫn Phật và giáo đoàn về thẳng tu viện Kì Viên. Thấy cơ sở được kiến thiết một cách chu đáo, Phật ngỏ lời khen ngợi công đức cúng dường của Tu Đạt.

Kì Viên là trung tâm tu học và hành đạo to lớn được xây cất sau tu viện Trúc Lâm. Đức Phật đã trải qua mùa an cư thứ tư tại đây. Từ mùa an cư thứ hai mươi, do được chư tăng cung thỉnh, mỗi năm cứ tới mùa mưa, Ngài lại về an cư tại Xá Vệ. Tổng cộng, tại tu viện này, đức Phật đã an cư cả thảy mười chín lần. Phần lớn các kinh điển cũng đã được Phật thuyết tại đây. Trưởng giả Cấp Cô Độc thường là đối tượng để Phật nói các bài pháp dành cho hàng cư sĩ.

Có thể nói, Cấp Cô Độc đã đến tu viện hàng ngày để thăm Phật và học hỏi. Đạo tâm của ông thực là kiên cố. Cả gia đình ông đều là những Phật tử thuần thành. Vợ ông là một người nội trợ hiền lương đạo đức. Ba cô con gái đều có tâm đạo nhiệt thành. Cậu con trai út ban đầu không thích đi chùa nghe pháp, hạnh kiểm không được tốt lắm, nhưng nhờ sự dạy dỗ khéo léo của cha mẹ, cậu cũng chịu nghe lời Phật dạy, và trở nên một người mẫu mực. Khi cậu con trai này lập gia đình, lại gặp phải một người vợ ngỗ nghịch, ỷ con nhà giàu, không nghe lời cha mẹ chồng, không nể nang sự khuyên bảo của chồng, mà cũng không tín phụng Phật pháp. Một hôm, đức Phật đến nhà thăm cư sĩ Tu Đạt thì vừa gặp đúng lúc cô con dâu của ông đang quát tháo ồn ào ở nhà sau. Ngài liền cho gọi cô ấy lên và giảng cho cô nghe một bài pháp về “bảy hạng người vợ trên thế gian” (2). Sau khi nghe bài pháp này, cô lấy làm hổ thẹn và xin hứa với Phật sẽ quyết tâm đổi tính nết để trở thành một người vợ hiền, một con dâu hiếu thảo. Từ đó, gia đình của cư sĩ Tu Đạt trở thành một gia đình toàn vẹn gương mẫu.

Hạnh bố thí của cư sĩ Tu Đạt thật rộng lớn. Đối với xã hội, ông luôn luôn để ra một phần gia sản để chu cấp cho tất cả những kẻ nghèo khó, cô đơn, không nhà cửa, không có họ hàng thân thích để nương tựa. Ông giúp đỡ, bênh vực và che chở họ. Bởi vậy mà ông được mọi người kính mến, nể vì, từ quốc vương, các đại thần trong triều đình, cho đến những kẻ cùng đinh trong dân gian. Đối với đức Phật và giáo đoàn, ngoài việc cúng dường tu viện Kì Viên, ông còn phát tâm (cùng với nữ cư sĩ Tì Xá Khư – xin xem chương kế tiếp) cung cấp chỗ cư trú, y áo, thực phẩm và thuốc men cho chư tăng ni bất cứ từ đâu đến thành Xá Vệ.

Mùa an cư thứ ba mươi bảy, đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên. Một hôm sau buổi pháp thoại, bà vợ của của sĩ Tu Đạt đã bạch Phật rằng, chồng bà đang bệnh nặng, có thể không còn sống được bao lâu nữa. Hôm sau, đức Phật cùng với hai tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan đi thăm Tu Đạt. Thấy Phật và hai tôn giả đến, ông vui mừng lắm. Để an ủi ông, Phật dạy:

– Tu Đạt! Suốt đời ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa. Ông đã làm vơi nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người. Ông cũng đã đóng góp thật nhiều tâm lực vào sự hoằng truyền đạo giác ngộ được lan rộng khắp nơi hcốn. Ông sống đúng theo chánh pháp, đã tạo được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, và cho cho rất nhiều người trong xã hội. Bây giờ thì ông nên tịnh dưỡng. Thầy Xá Lợi Phất sẽ thỉnh thoảng đến thăm ông và hướng dẫn sự tu học cho ông.

Gần một tháng sau, người nhà của cư sĩ Tu Đạt lên tu viện báo cho tôn giả Xá Lợi Phất biết là bệnh tình của cư sĩ vừa trở nặng. Tôn giả liền mới tôn giả A Nan cùng đi thăm Tu Đạt. Ông không ngồi dậy được, chỉ nằm trên giường mà tiếp hai vị tôn giả. Biết đây là thời khắc cuối cùng của cuộc đời ông, tôn giả Xá Lợi Phất liền thuyết cho ông nghe một bài pháp cao siêu; vừa thuyết vừa dạy ông quán tưởng theo. Khi nghe và quán tưởng theo bài pháp ấy xong, nước mắt ông bỗng chảy ràn rụa trên hai gò má. Tôn giả A Nan thấy thế, hỏi:

– Cư sĩ Tu Đạt! Sao? Có phải ông lo sọ mà quán chiếu không thành công, và tinh thần trở nên suy nhược không?

– Bạch tôn giả A Nan! Con không có lo sợ, tinh thần con không hề suy nhược. Con quán chiếu rất thành công, con khóc là vì con quá xúc động. Con đã phụng sự Phật và chúng tăng hơn ba mươi năm nay, đã từng được nghe nhiều bài pháp do đức Thế Tôn giảng dạy, vậy mà chưa bao giờ con được nghe bài pháp nào sâu xa và nhiệm mầu như bài pháp hôm nay.

Tôn giả Xá Lợi Phất giải thích:

– Cư sĩ Tu Đạt! Những giáo pháp sâu xa nhiệm mầu như vầy thường chỉ được giảng dạy cho chư vị tăng ni mà thôi.

– Bạch hai vị tôn giả! Hàng đệ tử cư sĩ chúng cón cũng có người có thể nghe, hiểu và hành trì được giáo pháp sâu xa nhiệm mầu này. Xin hai vị tôn giả bạch với đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép giới cư sĩ chúng con được nghe và hành trì giáo pháp xâu xa mầu nhiệm đó.

Cư sĩ Tu Đạt đã an nhiên từ trần ngay chiều hôm đó. Hai vị tôn giả đã ở lại hộ niệm rất lâu cho ông.

CHÚ THÍCH

(1) Vua Ba Tư Nặc trị vì vương quốc Kiều Tát La, đóng đô tại thành Xá Vệ. Nhà vua cùng tuổi với đức Phật. Chánh hậu của vua là bà Mạt Lị (Mallika), sinh ra thái tử Kì Đà. Em gái của nhà vua là bà Vi Đề Hi, được gả về làm chánh hậu của vua Tần Bà Sa La (nước Ma Kiệt Đà), sinh thái tử A Xà Thế. Vua Ba Tư Nặc tính tình cao ngạo, nhưng từ sau khi được Phật giáo hóa thì trở nên một người khiêm cung, lại là một đệ tử tại gia trung kiên của đức Phật. Phải nói rằng, thái tử Kì Đà đã đến với Phật trước nhất, sau đó thái tử đã dẫn mẹ đi nghe pháp. Nhờ lòng trung hậu và trí thông minh sáng suốt, hoàng hậu Mạt Lị đã thấm nhuần giáo pháp rất mau chóng, và bà đã khôn khéo, chân thành dẫn dắt nhà vua về với Tam Bảo. Nhà vua đã được cơ duyên nghe pháp rất nhiều, hơn cả vua Tần Bà Sa La. Có rất nhiều kinh Phật nói mà đối tượng là vua Ba Tư Nặc. nhà vua tôn kính đức Phật đến nỗi đã có lần đảnh lễ và ôm hôn chân Phật, rồi chí thành tán thán đức Phật và giáo đoàn của Ngài. Năm nhà vua bảy mươi chín tuổi, trong khi đang đi du hành ở vùng biên giới, thì ở thủ đô, hoàng tử Tì Lưu Li (Vidudabha, con một bà thứ hậu) làm cuộc đảo chánh, giết thái tử Kì Đà, rồi lên ngôi vua; khiến cho vua Ba Tư Nặc phải chết thảm ở một công viên bên ngoài thành Vương Xá. Vua A Xà Thế (cháu của nhà vua) hay tin, rước long thể nhà vua vào thành làm lễ quốc táng.

(2) Bảy hạng người vợ trên thế gian: 1) Hạng vợ không có lòng trắc ẩn, không nhã nhặn ôn hòa, hay gây rối chồng và có khuynh hướng sát nhân; 2) Hạng vợ hay trộm cắp tài sản của chồng tạo nên do mồ hôi nước mắt; 3) Hạng vợ suốt ngày lười biếng, tham ăn, ưa ngồi lê đôi mách, la lối gắt gỏng om sòm như một bà chủ; 4) Hạng vợ biết thương yêu chồng và chăm sóc chồng như người mẹ yêu thương đứa con duy nhất, biết gìn giữ của cải, thận trọng, và để ý từng tí một; 5) Hạng vợ biết kính nể chồng như em gái kính anh, tâm tính ôn nhu, hết lòng phục vụ mọi ý muốn chính đáng của chồng; 6) Hạng vợ vui vẻ, hân hoan mỗi khi thấy mặt chồng, như được gặp lại người bạn thân thiết xa cách đã lâu ngày, vừa duyên dáng dịu hiền, vừa là một cộng sự dễ mến; 7) Hạng vợ biết chịu đựng im lặng và giữ tâm tinh khiết, luôn luôn vâng lời chồng và không bao giờ sân hận.

Nguồn: Tổng hợp

Để biết thêm chi tiết, xin vui lòng liên hệ với KênhNhóm trên Telegram

      

   

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *