Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Chương Bảy: Tâm Tư Lương
A-LẠI-DA THỨC VÀ Ý THỨC
Trong tiến trình đời sống hằng ngày, chúng ta gặp gỡ nhiều người, thấy và nghe những điều khác nhau, nỗ lực để trải nghiệm mọi thứ. Cuộc sống chúng ta gồm những chuỗi liên hệ giữa “cái tôi” và những người, những vật, và những sự kiện này. Nhưng nội dung liên hệ sẽ tùy thuộc phần lớn trên cách chúng ta nhận diện những sự vật.
Chúng ta biết rằng trước tiên trong quá trình nhận biết, A-lại-da thức – tác nhân biến hiện đầu tiên tiêu biểu cho sự dàn bày tổng hợp tất cả kinh nghiệm quá khứ của chúng ta – đã tạo ảnh hưởng lớn lao trên đối tượng nhận biết. Sau đó Mạt-na thức, tác nhân biến hiện thứ hai, cố gắng hiểu biết mỗi sự vật với tâm chấp ngã khó dò tìm. Nền tảng chúng ta nhận thức hằng ngày nằm trong phần tâm sâu kín A-lại-da thức, do hành động và kinh nghiệm của chúng ta tạo thành, cùng với tâm bám víu vào cái ngã là Mạt-na thức. Đó là những nền tảng từ đó chúng ta trải nghiệm cuộc đời mình. Tuy chúng ta tin rằng mình sống ý thức và tỉnh giác, khi lưu tâm kỹ tiến trình nhận thức và quá trình không thể tránh được qua hai sự biến hiện trên, thật khó khăn để giữ vững quan điểm là chúng ta lèo lái đời mình chỉ trong tỉnh giác và ý thức thôi.
Biết rằng biến hiện thứ nhất và thứ hai xảy ra tiềm ẩn, chúng ta không có phương cách rõ rệt để tới gần được, kết quả là chúng ta không hiểu được điều gì đang thực sự xảy ra trong tâm mình. Chức năng biến hiện thật sự rất bí ẩn, nhất là chức năng của A-lại-da thức, nền tảng tâm lý căn bản nhất nhận chịu sự huân tập từ vô thủy. Vì được toàn bộ kinh nghiệm quá khứ của chúng ta tạo thành, A-lại-da thức có thể dò tìm ngược lại từ quá khứ vô tận. Ai có thể biết được đã chất chứa những gì trong đó? Tất cả những gì chúng ta có thể khẳng định lại vượt xa những gì chúng ta có thể tưởng tượng được – không có gì là hoàn toàn bí ẩn.
Chúng ta tin rằng mình đang sống trong tỉnh giác có ý thức, nhưng ngầm dưới mọi sự là một nền tảng tâm lý không thể hiểu được. Sự tương quan giữa vùng tâm có ý thức và vùng tâm sâu kín khó dò tìm làm tôi nhớ lại câu chuyện của một anh chàng nằm mơ thấy một trái cà tím khổng lồ. Khi người ta hỏi là trái cà lớn cỡ nào, anh chàng trả lời: “Giống như cài treo cái đài của trái cà vào khoảng trống đen ngòm.” Trong câu chuyện này, khoảng trống đen tối mở ra tới vô biên, và vì vậy trái cà lớn vô cùng. A-lại-da thức được so sánh với khoảng đen vô biên của trái cà và ý thức trên mặt thì giống như cái đài dính vào đầu mút trái cà.
Tuy rằng câu chuyện đài của trái cà ví với tâm hiểu biết thì hơi đơn giản quá, hy vọng rằng sẽ chứng minh được sự hạn chế của ý thức trong việc giải thích toàn bộ kinh nghiệm sống của chúng ta. Vì ý thức dễ bị ngắt quãng, càng được tăng thêm qua những tâm hành như tưởng, thọ, tư duy, và ý định, sẽ không thể giải thích được thực tại. Tuy nhiên mặc dù sự kiện những lần ngắt quãng này làm cho những chức năng tâm lý của chúng ta không liên tục, chúng ta vẫn sống một cuộc đời hợp nhất và liên tục. Điều này chỉ có thể xảy ra vì sự hiện hữu của A-lại-da thức duy trì bề mặt của tâm, kéo dài vào quá khứ vô tận. A-lại-da thức được xem là không thể mô tả được, rộng lớn, là nền tảng tâm lý đời sống chúng ta khi so sánh với bề mặt của tâm là thức thứ sáu, ý thức.
Nhưng điều này không có nghĩa chúng ta xem ý thức không quan trọng. Không có cách nào khác để dấn thân vào tự quán chiếu hơn là cách qua ý thức, sẽ cho phép điều chỉnh hoàn cảnh hiện tại và nhận biết con đường chúng ta cần phải đi đến tương lai. Không y cứ trên những chức năng của thức thứ sáu, chúng ta không thể làm điều gì để tự cải thiện được. Mặc dù phạm vi của ý thức nhận ảnh hưởng sâu dầy của A-lại-da thức và Mạt-na thức, khả năng học hỏi của chúng ta từ kinh nghiệm của tiến bộ trong tương lai chỉ có thể thực hiện được nhờ ý thức trong giây phút hiện tại.
Tôi xin được trích đoạn mở đầu của chuyện ngắn “Swiss Chard” như là một ẩn dụ so sánh sự liên hệ giữa A-lại-da thức và thức thứ sáu.
Người ta nghe được giọng người vợ nói: “Nó chỉ giống như sự đông đặc của tàu hũ thôi. Khi đậu nành được xay ra, chỉ là một thứ bột đậu nành nhão, không có hình thù gì, giống như súp, và chẳng có thể lấy được gì từ hỗn hợp đó. Tuy nhiên, sau khi thêm chất chua vào, nó biến thành tàu hũ, chắc và cứng, và thứ biến thành tàu hũ và thứ sẽ không thành tàu hũ thì được phân ra rõ ràng.
“Dù gì chăng nữa, chất chua thì cần thiết,” ông Yoichi nói từ nhà chính. “Đúng rồi. Nếu ông không dùng chất chua, tàu hũ không bao giờ thành,” bà vợ và ông Yoichi nghiêm trang đồng thanh nói.
Chức năng của A-lại-da thức là tiếp tục duy trì những dấu ấn và khuynh hướng của kinh nghiệm quá khứ trong dạng chủng tử, không để mất chút nào. Đây là cơ cấu hình thành nguyên thủy của mỗi cá nhân, nhưng gọi là “hình tướng của nguyên thủy vô tướng” thì chính xác hơn. Hãy tưởng tượng A-lại-da thức như một thứ giống như súp, một loại bột đậu nành nhão giống như truyện ngắn trên.
Dù A-lại-da thức có toàn hảo tới đâu bằng những gì đã tiếp thu và gìn giữ, nếu chỉ y cứ trên sự tỉnh giác của chức năng là kho chứa, thì không thể nhận diện được một “cái tôi” được định nghĩa rõ ràng và riêng biệt. Cũng như hình tướng của tàu hũ chỉ có thể đạt được sau khi thêm chất chua vào bột nhão súp đậu nành, trên đỉnh của “cái tôi” không hình tướng, giống như súp, chỉ sau khi có sự hiện diện của ý thức, yếu tố có thể tới gần các chất riêng rẽ, “cái tôi” rõ ràng, cá biệt mới được hình thành lần đầu tiên.
Trong khi so sánh ý thức với cái đài của trái cà, chúng ta lưu ý đến sự kiện là giống như chất chua làm đông tàu hũ, ý thức rất quan trọng. Trong khi hiểu tàng thức như căn bản của sự hiện hữu, nếu không có chức năng của ý thức, điều chúng ta gọi là “cái tôi” không có môi trường để vận hành trong xã hội. Như thế, Duy Thức Học Phật Giáo chủ yếu được biết đến vì nghiên cứu rộng rãi về sự hoạt động vùng tiềm thức của tâm, ý thức cùng những quan hệ tối quan trọng.
Tôn giáo bắt buộc phải đòi hỏi lòng tin của chúng ta. Vì các tôn giáo thì đa dạng nên mỗi tôn giáo có cách định nghĩa lòng tin khác nhau. Một cách giải thích y cứ trên cuộc thảo luận của chúng ta, rằng lòng tin đòi hỏi sự thành thật nhận lấy toàn bộ quá khứ chúng ta xem như nền tảng đồng thời trông chờ sự tạo dựng một tương lai tươi sáng. Trong khi đây là một viễn ảnh hơi hạn hẹp về ý niệm lòng tin, vẫn phản ảnh ít nhất hai điểm thiết yếu. Một là không ai có thể xắp xếp lại quá khứ của mình. Dù quá khứ của chúng ta ra sao, chúng ta phải chấp nhận. Điểm thứ hai là ý thức trong khi vận hành vẫn không ngớt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Mạt-na thức. Thậm chí những tâm sở thiện cũng phải vận hành dưới sự bám víu ích kỷ thâm căn cố đế khống chế một cách khắt khe, để rồi bị tước đoạt khả năng nhìn thấy sự vật một cách vô tư, không thiên lệch.
Sự trông cậy duy nhất chúng ta có được là tỉnh giác chấp nhận quá khứ của chúng ta mà không chống cự lại, và lấy đà từ vị trí tỉnh giác này, chúng ta vươn cao, đào sâu và mở rộng ý muốn hướng về thế giới của Phật. Đây là bước đi tôn giáo đầu tiên của Duy Thức Học, nền tảng của lòng tin.
TÁC NHÂN BIẾN HIỆN THỨ BA: Ý THỨC
Tâm của chúng ta không chỉ đơn giản nhận diện đối tượng đích thực như hiện hữu. Trái lại, tâm chủ yếu có khuynh hướng chủ quan thay đổi mọi thứ được thấy, nghe, và xúc chạm. Tâm của chúng ta thay đổi như thế trên ba mức độ.
Hai mức độ đầu, như chúng ta đã thấy, là A-lại-da thức và Mạt-na thức. Tác nhân biến hiện thứ nhất cốt chống lại toàn bộ những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta, và tác nhân biến hiện thứ hai được thúc đẩy bởi sự bám víu sâu chặt vào bản ngã chúng ta. Ngay cả khi cả hai sự biến hiện này thay đổi những đối tượng nhận thức nhanh như chong chóng, chúng ta vẫn hành động giả định là những đối tượng này được trực tiếp nhận biết, và chúng ta tiếp tục sống cuộc đời của mình căn cứ trên sự giả định như thế.
Khi hiểu được lời dạy này, chúng ta không còn có thể tiếp tục giả định mình nhận thức sự vật như thật sự hiện hữu. Tuy vậy, hiểu biết đơn giản sự kiện này trên mặt tri thức sẽ không mang lại kết quả nào nếu không có một vài hành động cụ thể chận đứng tập khí này. Và nếu không làm gì để kháng cự lại, chúng ta sẽ càng tin chắc mình thấy từ căn bản là đúng thay vì tìm cách thoát khỏi tập khí đó. Như vậy chúng ta sẽ thắc mắc làm thế nào để hy vọng có một cái nhìn đúng.
Tiến trình biến đổi không ngừng lại nơi tác nhân biến hiện thứ nhất và thứ hai. Giờ đây còn tác nhân biến hiện nữa xảy ra thêm vào hai biến đổi trên, đó là tác nhân biến hiện thứ ba. Trong đoạn nói về những tâm vương của tám thức, ám chỉ sự vận hành của thức thứ sáu và tiền ngũ thức. Trường hợp tiền ngũ thức sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương sau.
Duy Thức Học Phật Giáo chia những chức năng tâm lý thành 51 tâm sở được phân ra sáu nhóm tùy theo đặc tính. Những nhóm tâm sở này là:
- tâm sở biến hành
- tâm sở biệt cảnh
- tâm sở thiện
- tâm sở phiền não chính5- tâm sở tùy phiền não, và 6- tâm sở bất định.
Năm mươi mốt tâm sở trực tiếp liên hệ đến ý thức, và ý thức có phạm vi chức năng tâm lý cực kỳ đa dạng. Ngụ ý ở mức độ ý thức tâm có thể vận hành theo chiều hướng thiện hay bất thiện. Trong khi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của A-lại-da thức và Mạt-na thức, và y theo những chức năng khác nhau hoàn thành bởi ý thức, chúng ta có thể hoặc tiến gần hoặc rời xa Phật đạo.
Y cứ trên chức năng của ý thức, sự vật có khuynh hướng biến đổi một cách chủ quan, và những đối tượng được biến đổi được xem như đối tượng sự nhận thức trực tiếp của chúng ta. Tác nhân biến hiện thứ ba bắt đầu khi có sự hiểu biết đối tượng y cứ trên ý thức.
Một trong những cách thường thấy nhất để nhận biết những chức năng tổng quát của tâm con người là chia tâm ra thành ba phương diện là nhận thức, cảm xúc và ý hướng. Một biểu đồ làm cho tâm đơn giản hơn, chia thành hai phương diện tổng quát là nhận thức và cảm xúc. Những tiếp cận này đã được dùng từ xưa, và không hẳn phải xuất phát từ Á Đông hay Tây Phương. Trong Duy Thức, ý thức thường được phân tích thành ba phương diện là nhận thức, cảm xúc và ý hướng, và từ ba phạm trù này mở ra những đề tài thảo luận lớn rộng. Về tác nhân biến hiện thứ ba có nội dung rất phức tạp.
Điều quan trọng nhất cần phải để ý khi thảo luận về tác nhân biến hiện thứ ba là những đối tượng quan sát sẽ thay đổi đáng kể từ người này sang người kia, tùy theo lợi ích và thái độ cá nhân trong lĩnh vực rộng lớn về lợi ích và thái độ có thể có. Người ta có thể có một sự tỉnh giác sẵn sàng và mạnh mẽ về một vấn đề nào đó, và tiếp tục đào sâu. Người ta cũng có thể có mức độ quan tâm nào đó về một đối tượng nhưng không có sự thúc đẩy để truy tìm. Cho dù cả hai loại quan tâm đều cùng một đối tượng, kết quả nhận được có thể khác nhau một trời một vực. Như thế, người thứ nhất thấy nhiều thứ mà người thứ hai không thấy. Khi bị đối tượng lôi cuốn trên mặt tri thức, hiếm có những người có nhu cầu và ý muốn thúc đẩy đi sâu và nghiên cứu. Người thứ hai không thấy điều mà người thứ nhất nắm được qua sự chú ý nhiều hơn.
Trong trường hợp không hiểu được điều đáng lý phải được hiểu bằng ý thức, chúng ta có thể thấy sự vận hành của tâm sở giải đãi trong số những tâm sở tùy phiền não, hay tâm sở thùy trong số những tâm sở bất định, những tâm sở này làm u lụn khả năng nhận biết và khiến ta lâm vào tình trạng u sầu.
Thí dụ chúng ta có thể đọc một trang sách, nhưng với tâm sở giải đãi chúng ta có thể không hiểu nội dung những đoạn văn – những câu được viết trên trang giấy chỉ là mẫu tự không truyền tải ý nghĩa. Hay trong trường hợp sân trong những tâm sở phiền não, chức năng của sự giận dữ thu hẹp toàn bộ phạm vi nhận thức. Kết quả là khả năng phán đoán đúng đắn của chúng ta mất đi. Như thế chính những yếu tố tình cảm của ý thức biến đổi đối tượng nhận thức một cách đáng kể.
SỰ ĐA DẠNG CỦA Ý THỨC
Một sáng mùa hè lúc mặt trời chưa mọc, một người đứng trong một ngôi vườn. Ngửi được mùi sen nở, người ấy quên hết nỗi khổ đêm qua mất ngủ vì mùa hè nóng nực, như thể nỗi khổ chưa bao giờ xảy ra. Lúc này, trời sáng dần, và hoa sen đủ màu, trắng, đỏ, và điểm những chấm tím đang dần dần phơi bày vẻ đẹp của hoa. Ông ta nghiêng mặt xuống gần bông sen trắng và hít vào một hơi sâu mùi thơm. Lúc này, nhãn thức và tỷ thức của tiền ngũ thức làm công việc nhận thức trước tiên đóa sen trắng thơm. Ông ta kinh nghiệm sự nhận thức trực tiếp trên vật đơn giản như đang là.
Thức thứ sáu khởi lên cùng một lúc với chức năng của tiền ngũ thức. Ý thức nhận được cảm giác từ tiền ngũ thức tới mức độ nhận thức “đây là một đóa sen trắng đẹp, mùi hương rất thơm.” Và có lẽ sự nhận thức dẫn đến so sánh như là “phong lan và chiên đàn cũng thơm, nhưng rốt cuộc hoa sen thơm nhất.”
Tuy nhiên, ý thức không đòi hỏi chức năng của tiền ngũ thức để hoạt động. Tiền ngũ thức bị giới hạn trong chức năng kinh nghiệm trực tiếp của giác quan, và như vậy giới hạn trong hoàn cảnh đặc biệt, và trong cảm thọ trực tiếp một đối tượng đang hiện hữu. Nhưng ý thức có thể, thí dụ như, nhớ lại đóa sen được thưởng thức sáng nay, và trong tiến trình ngẫm nghĩ về đóa sen, ý thức suy đoán, so sánh, liên hệ, và dự đoán, nhưng không thật thấy một đối tượng cụ thể nào. Theo nghĩa này, ý thức được diễn tả bởi thuật ngữ ý thức với phạm vi rộng lớn có nhiều vật ám chỉ.
Ý thức khởi lên theo hai trường hợp (1) cùng với tiền ngũ thức (ít nhất một thức), và (2) không liên hệ với tiền ngũ thức.
Trường hợp đầu, ý thức vận hành đồng thời với tiền ngũ thức và khiến nhận thức đối tượng của giác quan chính xác hơn. Đối với chúng ta thật bình thường việc sử dụng những thức giác quan và ý thức theo sau khi suy đoán và ý hướng kinh nghiệm chung với những nhận thức giác quan. Trong trường hợp ý thức khởi lên cùng với những thức giác quan được phân biệt thành hai nhóm:
(a) ý thức có cùng vật ám chỉ với thức giác quan, (b) ý thức không có cùng vật ám chỉ.
Trường hợp ngược lại, ý thức khởi lên không liên hệ với thức giác quan. Loại ý thức này được phân ra:
- ý thức khởi lên cùng với thức giác quan,
- ý thức khởi lên độc lập với thức giác quan.
Ý thức khởi lên cùng với thức giác quan là trường hợp sau khi một trong những thức giác quan vận hành, đối tượng sẽ được hiểu bởi ý thức. Chức năng ý thức không đồng thời với chức năng của năm thức giác quan, nhưng xảy ra liền theo sau.
Lấy lại thí dụ đọc sách. Trước hết, nhãn thức thấy những chữ in trên trang giấy như chúng đang là. Rồi ý thức khởi lên cùng lúc với nhãn thức theo sau để nhận biết ý nghĩa của chữ. Tuy nhiên, ý thức không ngừng ở đó, vì chúng ta tiếp tục liên hệ nội dung những gì đã được đọc, suy nghĩ về ý nghĩa. Đây là chức năng của ý thức tiếp theo thức giác quan vận hành.
Có trường hợp những câu và những chữ được nhớ lại trong một dịp nào đó. Nhớ lại từ ngữ trong một bài thơ hay cuốn tiểu thuyết ưa thích, chúng ta nghiền ngẫm ý nghĩa, thưởng thức sâu đậm hơn. Loại chức năng này của ý thức không xảy ra đồng thời với tiền ngũ thức, cũng không xảy ra liền sau đó.
Trong một bài thơ tựa đề “Nhớ về chùa Hưng Phước” Shùsò Dòjin đã viết:
Tôi nghĩ là mùa xuân đã đến rồi; người ta đến và đi;
Trong vườn Phật, có lẽ hoa đang nở rộ.
Dojin, người đã trở lại Tokyo, đang viết bài thơ với lòng mong ước. Trong khuôn viên của chùa Hưng Phước ở Nara, mọi người chờ đón xuân, đã đến và ra đi một cách thong thả. Dojin không thực sự chứng kiến khung cảnh với chính cặp mắt của ông, nhưng ý thức của ông đã khởi lên một cách độc lập, y cứ trên những kinh nghiệm quá khứ, tưởng tượng cảnh cũ vào thời gian này chắc chắn phải đang hiện ra ở Nara. Và ông lặng lẽ tự đặt mình vào cảnh vật đó.
Nếu vai trò duy nhất của ý thức chỉ một việc đáp ứng đối tượng nhận thức hiện ra trước mắt chúng ta, cuộc đời của chúng ta cuối cùng sẽ buồn tẻ lắm. Chính khả năng có thể lôi lên những thứ tận trong tầng sâu thẳm chính mình, xem xét và nghiền ngẫm những tính chất riêng biệt, rồi gom góp sự hiểu biết này mang lại phong nhiêu và chiều sâu cho đời sống chúng ta. Đây là chức năng thiết yếu của ý thức khởi lên một cách độc lập.
TÂM TƯ LƯƠNG ĐA DẠNG
Duy Thức Học Phật Giáo phân tích những chức năng tâm gồm năm tâm sở biến hành, năm tâm sở biệt cảnh, mười một tâm sở thiện, sáu tâm sở phiền não chính, hai mươi tâm sở tùy phiền não, và bốn tâm sở bất định, tất cả là năm mươi mốt tâm sở được chia thành sáu nhóm. Khả năng của năm mươi mốt tâm sở này tùy thuộc phần lớn vào thức thứ sáu, ý thức.
Ý thức, sở hữu năm mươi mốt chức năng tâm lý này và có khả năng nhận thức tất cả các pháp, nghiên cứu phạm vi rộng lớn các đối tượng do những chức năng này bao phủ, và cho phép chúng ta nhận định các đối tượng. Vì những tâm hành có những đặc tính luân lý về nghiệp được định nghĩa rõ ràng – như những tâm hành thiện, phiền não, tùy phiền não – vận hành trong phạm vi ý thức, sức tỉnh giác của chúng ta có khả năng đưa chúng ta về nẻo thiện hay bất thiện.
Ngay cả khi những tâm hành thiện có mặt, vẫn phải vận hành trên lòng ích kỷ sâu dầy của Mạt-na thức như đã được diễn tả trong bốn phiền não xảy ra đồng thời. Điều này khuyến khích chúng ta đến vị trí bơi ngược dòng, như đã xảy ra. Ở đây chúng ta được nhắc nhở tới lời cảnh báo của Ryohen: Ngay cả những lúc khi sáu thức của chúng ta vận hành một cách thanh tịnh, chúng ta luôn luôn bị ô nhiễm ở tầng thức thâm cùng. Điều này có thể đúng, một sự kiện rõ ràng, tuy nhiên chính xác là trong chúng ta có lương thực căn bản cho sự tu tập một đời sống thiện, tâm linh, và khả năng phấn đấu đến giác ngộ. Khi đã nhận ra tính chất đặc biệt này của ý thức, chúng ta có thể bắt đầu điều phục những tâm hành phiền não căn bản và tùy phiền não. Một khi điều thiện trong tâm được củng cố, sẽ trở thành nền tảng vững chắc giúp chúng ta sử dụng để đi sâu vào con đường giác ngộ.
Chúng ta có thể hoặc bước một bước đầu tiên vững vàng về hướng thiện, hoặc làm cho tâm rối loạn thêm, phân tán thân tâm vỡ thành ngàn mảnh, kể lể với mọi người là chúng ta bị đẩy vào tình trạng này vì ngoại cảnh chi phối, ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Quyết định liên quan đến tiến trình hành động của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào hoạt động tâm thức.
Chương 3 (“Những chức năng của tâm”) chúng ta đã thảo luận về bốn tâm sở được xếp vào các nhóm tâm sở biến hành, biệt cảnh và bất định. Trong chương 6 (“Ngã Sâu Kín Chìm Trong Lòng Vị Kỷ”) chúng ta nghiên cứu bốn tâm sở tham, mạn, si, và ác kiến thuộc tâm sở phiền não căn bản, cũng như các tâm sở bất tín, giải đãi, phóng dật, hôn trầm, trạo cử, thất niệm, bất chánh tri, và tán loạn thuộc tâm sở tùy phiền não. Giờ đây chúng ta nói tới hai tâm sở phiền não căn bản còn lại, và sau đó sẽ bàn tới 12 tâm sở tùy phiền não còn lại, và cuối cùng kết thúc với 11 tâm sở thiện.
Tâm sở sân là phiền não liên quan tới sự giận dữ, thường được mô tả cùng với tham và si, tên là “tam độc”, như đã được giới thiệu bên trên. Ba tâm sở này được coi là sơ đẳng nhất trong những vấn đề về tâm lý. Jokei (Gedatsu Shonin; 1155-1213), khi mô tả trạng thái của một người trong quá trình tự quán chiếu sâu xa (trong Tuyển tập Phát Tâm từ Si Mê) gọi chúng ta là “những con người bị nhiễm những tập khí độc hại.”
Lời khẳng định của ông làm nhớ lại chúng ta chỉ là những con người sống cuộc đời mình dưới ảnh hưởng nặng nề của dấu ấn nghiệp trong A-lại-da thức, những dấu ấn này đến lượt lại bị ảnh hưởng của duyên là những tâm hành sơ đẳng tham, sân, và si.
Chúng ta đã thấy tâm sở tham, khi ham muốn quá đỗi những thứ ưa thích. Ngược lại là tâm sở sân, thuộc về phẫn hận hướng về những sự vật không ưa thích. Khi tâm sân dấy khởi, bất cứ một chút an lạc và thư thái nào của thân và tâm đã duy trì được tới giây phút đó lập tức biến mất.
Nghi là tâm hành chỉ có thể thấy trong thức thứ sáu. Khi người ta có mối nghi ngờ về hiệu quả những nguyên lý như luật nhân quả và vô ngã, sự do dự sẽ ngăn cản chúng ta hoàn toàn giao phó hết mình cho những chân lý căn bản ấy.
Mười tâm sở kế tiếp trong những tâm sở tùy phiền não gồm phẫn, hận, não, phú, cuống, siểm, kiêu, tật, hại, và xan, tất cả nằm trong phạm trù thức thứ sáu.
Phẫn là cảm thọ giận dữ những sự vật không vừa ý mình. Khi tâm sở này dấy khởi, lời nói và thái độ thô lỗ chắc chắn sẽ xảy ra sau đó.
Hận là tâm hành xảy ra từ tâm sở phẫn kéo dài, và có đặc tính là chán ghét và căm thù điều gì không làm mình hài lòng. Hậu quả của tâm sở này là sự thư thái của thân và tâm bị tan hoại.
Não là tâm sở thuộc tâm lý xảy ra cùng với kinh nghiệm phẫn và hận kéo dài và ta liên tục cảm thấy giận dữ và thù hận. Tâm không được bình an, và trong trạng thái loạn động này, ta phản kháng lại mọi thứ thấy, nghe, tự động gây ra khổ não cùng cực. Tất cả ba tùy phiền não phẫn, hận, não dấy khởi y cứ trên căn bản phiền não sân.
Trong đạo Phật, háo danh ham lợi mãnh liệt là một vấn đề rất căn bản. Những tâm sở phú, cuống, và siểm là những tâm sở dẫn xuất từ việc đặt tầm quan trọng quá lớn vào tiếng tăm và sự giàu có, và đây là biểu thị của suy nghĩ huyễn hoặc và xuất phát từ phiền não căn bản là tham và si.
Tâm sở phú xảy ra khi ta sợ hãi bị mất tiếng tăm xã hội đã tạo ra được, vì người khác sẽ khám phá những hành vi và thái độ lỗi lầm hay ác độc của mình. Người ta thường làm đủ cách để che dấu những hành vi này, vì nếu bị khám phá ra, địa vị hạ xuống, và hành động như thế chỉ làm cho ta lo lắng và rầu buồn hơn.
Tâm sở cuống xảy ra khi lòng tham làm cho ta cố đạt danh vọng và lợi lộc bằng cách dối gạt người khác, giả bộ như có khả năng mà thực sự không có. Siểm là một chức năng tâm lý tương tự vận hành trong khi quan tâm đến danh và lợi, khiến ngợi khen quá mức người nào đó với những nguyên cớ không chính đáng.
Tâm sở kiêu là cảm thấy tự cao khi chúng ta đặt tầm quan trọng quá lớn vào tài năng hay tài sản của mình, thấy mình trội hơn khi so sánh với những người khác. Tâm sở này biểu hiện phiền não căn bản tham.
Tâm sở hại là một trạng thái tâm hoàn toàn thiếu vắng lòng thương xót đối với mọi thứ, khiến ta tiếp tục gây đau khổ cho người khác không một chút hối hận.
Tâm sở tật xảy ra khi người ta chẳng làm gì khác ngoài chuyện lo lắng về tiếng tăm và của cải, và trở nên bực bội khi thấy người khác thành công và có danh tiếng, từ đó khởi lên tật đố và ghen tị. Khi một người nào đó chung quanh chúng ta làm được vài điều thiện được xã hội đánh giá cao, chúng ta thản nhiên nói, “hay quá.” Tuy nhiên, nếu có ai tiến bộ mau chóng mà không cần cố gắng nhiều, chúng ta bực bội. Ở đây, tâm sở tật đã bị kích động. Tâm sở hại và tật dẫn xuất từ phiền não căn bản sân.
Tâm sở xan là keo kiệt liên quan đến vật sở hữu của mình, vật chất hay hiểu biết. Không cần nói, ai cũng biết là tâm sở này y cứ trên phiền não căn bản tham.
Điều này kết thúc sự bàn bạc về những tâm sở tùy phiền não liên quan tới ý thức. Bây giờ chúng ta qua những tâm sở không nhất thiết là của ý thức.
Tâm sở vô quý là trạng thái tâm không tự quán chiếu, không có ý thức xấu hổ, trong khi tâm sở vô tàm tương tự ám chỉ sự thiếu quan tâm đến việc người khác có thể nghĩ gì. Hai tâm sở này trốn kỹ dưới lớp tâm tận cùng khi chúng ta ở trong trạng thái tâm lý bất thiện. Ngoài việc vận hành trong thức thứ sáu, những tâm sở này còn vận hành trong phạm vi năm thức giác quan.
Bây giờ chúng ta hãy xét đến các tâm sở thiện.
Tâm sở tín là chức năng tâm lý thanh tịnh, Duy Thức Học Phật Giáo phân chia thành ba mặt: (1) Trí tín (2) Hỷ tín, và (3) Năng tín. Năng tín là ý hướng muốn tu tập các pháp thiện. Trí tín là sự nỗ lực cố gắng để xác định chân lý của thế gian.
Đây là tâm sở y cứ trên tâm sở thắng giải (một trong những tâm sở biệt cảnh) nghĩa là hiểu biết sâu sắc. Có thể nói tâm sở này xuất phát từ tri thức vì nghiên tầm hiểu biết sâu xa các hiện tượng.
Hỷ tín (hay là tin có Đức), là tâm hành từ đó ta cố gắng hiến đời mình vào việc tìm cầu giác ngộ. Phần lớn khi từ tín được sử dụng một mình trong các kinh bản Phật Giáo là theo nghĩa này, có thể được xem là khía cạnh tình cảm của lòng tin.
Năng tín (hay là tin có khả năng) tìm cầu tu tập các pháp thiện, nghĩa là có ý hướng rất mạnh để tu tập và hoàn thành tất cả các điều thiện. Đây là một chức năng của ý chí.
Tâm sở tín thường được hiểu là có nguồn gốc bắt rễ từ khía cạnh tình cảm của tâm. Tuy nhiên, đặt lòng tin vào đạo Phật thì không hẳn bị hạn cuộc vào lĩnh vực tình cảm. Trong những chức năng của lòng tin thật sự bao gồm cả ba khía cạnh nhân bản là nhận thức, tình cảm và ý muốn, và do đó lòng tin trong ba khía cạnh này phân biệt rõ ràng. Lòng tin là một hoạt động của tâm huy động mọi yếu tố con người có được cốt thúc đẩy chúng ta tiến về một đời sống căn bản trên chân lý.
Đặc điểm của Phật Giáo thường được xem là lối sống tập trung vào việc từ bỏ điều ác và tu tập điều thiện. Chức năng tâm lý của hành động chánh niệm y theo chân lý, và sống cuộc đời căn cứ trên thực tại được gọi là tấn. Khi tâm tinh tấn vận hành, thái độ chán nản và rầu buồn khi hướng về sự thật và điều lành (tâm sở giải đãi trong những tâm sở tùy phiền não) bị cắt đứt. Tâm sở ước muốn thiện vận hành theo hướng lành là nền tảng cho chức năng tâm lý của tấn, điều này đã được bàn kỹ ở trên.
Tâm sở quý nói đến năng lực của tự quán chiếu theo nội dung giáo lý mà ta đã dâng hiến cả cuộc đời mình, trong khi ý thức về tàm vận hành tùy thuộc vào những hành vi bị người chung quanh quán sát.
Sử dụng cả hai tâm sở này, người ta chăm chỉ hướng đến mục tiêu cuối cùng là một đời sống chân lý trong khi không ngừng sửa đổi hành vi của mình. Chúng ta có thể nói là tâm sở quý quyết định theo một đường hướng hành động y cứ trên những nguyên tắc nội tâm, trong khi tâm sở tàm xem những nguyên tắc xã hội là tiêu chuẩn đạo đức. Khi hướng về nẻo thiện, chúng ta bắt đầu quán chiếu sâu xa đời sống hằng ngày của chúng ta trong sự tôn trọng chánh pháp một cách đúng đắn. Đồng thời chúng ta không nên quên là mình đang bị những người khác quán sát. Vì “cái tôi” không hiện hữu ở đâu khác ngoài xã hội, nên có cơ hội để tịnh hóa những tương quan với xã hội thì không phải chỉ là hợp thời mà còn được tôn vinh.
Ba tâm sở vô tham, vô sân, và vô si là những trạng thái tâm không ham muốn, không nổi sân, và không bị che mờ; ba tâm sở này trừ tam độc tham, sân, và si, được gọi là tam thiện căn, căn bản cho tất cả các thiện pháp xuất hiện. Tương tự như một cây lớn mạnh phụ thuộc vào phẩm chất của rễ, ba thiện căn vô tham, vô sân, và vô si tác động đến tiến bộ hướng về giác ngộ.
Vô si ám chỉ có hiểu biết rõ ràng rằng các pháp sinh, trụ và diệt theo nguyên lý vô thường và vô ngã của các pháp. Dĩ nhiên chúng ta chưa hẳn đã nắm vững được cách suy nghĩ căn bản trên vô thường và vô ngã.
Bằng cách củng cố sự suy nghĩ của chúng ta y cứ trên những chân lý này và nỗ lực biến suy nghĩ thành nền tảng cho cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể khắc phục cảm thọ ham muốn những đối tượng vướng mắc, làm chủ cảm thọ chán ghét những đối tượng không ưa thích. Đây là chức năng của các tâm sở vô tham và vô sân.
Khinh an là chức năng tâm lý tách tâm ra khỏi những phiền não, làm cho tâm và thân cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái. Đây là một chức năng khiến cho tâm sở trạo cử của tùy phiền não mất tác dụng. Khác với những tâm sở thiện khác, tâm sở này chỉ được thấy trong trạng thái có định sâu khi hành thiền, và ít khi gặp trong đời sống hằng ngày.
Ba tâm sở kế là cần, hành xả, và bất hại có thể hiểu như những thái độ quán chiếu cần thiết chúng ta cần phải phát triển cho sự tu tập các thiện pháp.
Tâm sở cần nói tới chức năng tâm khi làm việc chăm chỉ không lười biếng, thực hiện tất cả các thiện pháp và vạch ra một con đường phân cách rõ rệt giữa thiện và ác. Dĩ nhiên, người ta có thể có lợi lộc khi chăm chỉ trong bất cứ sự nỗ lực nào, nhưng trong phạm vi của Phật Đạo, nếu giải đãi, ta đánh mất dịp may nắm được bàn tay đưa ra từ thế giới chư Phật.
Chăm chỉ thi hành các thiện pháp không nên xem như bị lao dịch, thật ra ta cảm thấy vui và dễ chịu. Tuy nhiên, nếu chăm chỉ quá độ, có thể trở thành tâm sở trạo cử của tùy phiền não, và cuối cùng là tình trạng bất ổn và không đi đến kết quả nào. Để đề phòng việc này, ta nên nhớ rằng thiện pháp chỉ có thể phát triển một cách trầm tĩnh và đều đặn.
Thái độ trầm tĩnh liên quan đến việc đạt tới mục đích là tâm sở hành xả. Điều này thật khó làm, nhưng mục đích của chúng ta là tu tập thiện pháp trong khi chúng ta phải cắt đứt mọi ý niệm mong cầu đạt được nó. Cần và hành xả xuất phát từ sự kết hợp của tâm sở tấn và ba thiện căn.
Mặt khác, bất hại là một phần của tâm sở vô sân. Thí dụ như khi đối diện với một người bất đồng, chúng ta không nên xem người ấy là đối tượng giận ghét. Nên thông cảm với người ấy, hiểu nỗi đau của sự phiền não mà người ấy đang chất chứa trong tâm.
Ở đây chúng ta đã nghiên cứu một cách sơ lược những nét chính của các tâm sở thiện. Trong Duy Thức Học Phật Giáo, khi những tâm sở thiện khởi lên, tất cả mười tâm sở, trừ tâm sở khinh an, sẽ vận hành hòa hợp với nhau. Vì những tâm hành thiện cùng hoạt động như thế, khi vận hành nằm trong ý thức sẽ tác động một năng lực tích cực ảnh hưởng lên tâm chấp ngã trong tiềm thức, đẩy mạnh tiến bộ trên con đường giác ngộ.
KẾT LUẬN:
VẤN ĐỀ LÀ BÂY GIỜ CHÚNG TA LÀM GÌ?
Chúng ta biết rằng thức thứ sáu, là một thức với nhiều vật ám chỉ, có thể nhận bất cứ sự vật nào làm đối tượng nhận thức, quá khứ, hiện tại, và tương lai, và có thể yểm trợ cả tâm sở thiện và bất thiện.
Ý thức phán đoán mỗi hiện tượng riêng rẽ theo nhiều cách khác nhau. Tuy có khả năng phán đoán đa dạng, thức thứ sáu vẫn là một tâm tương đối phiến diện, với những chức năng tâm lý dễ bị ảnh hưởng của A-lạida thức và Mạt-na. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thảo luận về một “cái tôi” thật trong hiện tại trong khi bỏ qua những hoạt động và thái độ trong quá khứ, hay vướng mắc sâu xa vào cái ngã cố chấp.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn có khả năng tự nhủ rằng: “Đây không phải là một ý kiến hay,” và từ nay trở đi, chúng ta bắt đầu tạo lập con người mới. Lười biếng trở nên chuyên cần và giải đãi biến thành tinh tấn. Lý do có thể có sự thay đổi này là vì căn bản sự hiện hữu của chúng ta, là A-lại-da thức, có đặc tính bất định không thiện cũng không ác. Mặc dù sự kiện là bản ngã hiện tại của chúng ta được cấu tạo từ những hành động và kinh nghiệm quá khứ của chúng ta, quá khứ vẫn còn là quá khứ. Chúng ta giờ đây đang hăng hái gầy dựng một tương lai có tính chất khác hơn quá khứ và từ nay trở đi sẽ là trọng tâm của kinh nghiệm sống.
Mặc dù chúng ta đã bỏ một thời gian dài để thực tập các tâm sở thiện và tìm cầu giải thoát, chúng ta không bao giờ nên nghĩ là chúng ta có thể ngưng một giây phút nào trong sự nỗ lực của mình.
Ý thức của chúng ta thì thấm nhuận cả hai tâm sở thiện và phiền não, và hai loại tâm sở đối chọi này luôn hoạt động trong chúng ta. Chúng ta sống với tiềm năng hướng đến thiện hay ác bất cứ lúc nào.
Đời sống của chúng ta được xem như bị dằng co giữa thiện và ác, khiến chúng ta không sao có được an bình. Trong thức thứ sáu, chiều hướng thiện trở thành phiền não chỉ trong chốc lát. Vì đang cố gắng học hỏi từ những điểm vi tế này và vươn tới lĩnh vực giải thoát, chúng ta cần tập trung vào đích nhắm của mình. Trong Thái Căn Đàn chúng ta học được rằng:
Khi tâm và thân của ta trong sáng, bầu trời trong trẻo sẽ soi chiếu ngay cả trong một căn phòng u tối. Khi ý nghĩ của ta u tối và yếu mờ, ma quỷ đầy thù hận sẽ sống trong ánh sáng chói lọi giữa ban ngày.
Lời dịch của Usaburo hơi khác hơn một chút, nhưng cũng nêu rõ ý nghĩa: “Khi thân và tâm sáng chói, ngay cả trong một căn phòng tối, người ta thấy được bầu trời trong sáng; khi chúng ta bị tư tưởng trần tục làm vẩn đục, chúng ta sẽ bị ma quỷ tóm bắt ngay giữa ban ngày.” “Căn phòng tối” có thể được diễn giải bằng nhiều cách, nhưng tôi hiểu đó là tình trạng bất an trong xã hội và chúng ta biết mà không có khả năng chấp nhận tình trạng này. Nếu đặc tính của tâm là sáng chói vào lúc như thế, con người không bị giới hạn và trong lòng không phải đau đớn.
“Thân và tâm chói sáng” mô tả tình trạng khi chúng ta quyết định về một mục đích rõ ràng và chắc chắn cho cuộc đời mình. Khi một người sống không mục đích, dù bất cứ ở đâu cũng không thể chói sáng được. Hãy sống cuộc đời mình với một mục đích đặc biệt, trong đó, môi trường tạo nên do những tâm sở thiện dấy khởi sẽ tự động khai mở bao la.
Mọi người đều có khả năng tự quán chiếu một cách thực tế và tìm cầu thanh tịnh buông xả, tích cực tránh lười biếng và tham lam. Nếu chúng ta vững vàng sống theo cách này, dù mất nhiều thời gian, chúng ta chắc chắn sẽ được vào thế giới của chư Phật. Đây là nguyên lý nồng cốt của Duy Thức Học Phật Giáo.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet