Sách Tâm Linh

Đường Mây trên Đất Hoa

✍️ Mục lục: Đường Mây trên Đất Hoa

Phần 3: Thiền Thất Khai thị lần Thứ nhất

Trong tuần đầu tại chùa Ngọc Phật, Thượng Hải, năm 1953, Hòa thượng Hư Vân đã khai thị:


Ngày thứ nhất
Đại Hòa thượng Vi Phảng thật rất từ bi. Chư vị ban thủ cũng có tâm tha thiết muốn hoằng dương Phật pháp, cùng các vị đại cư sĩ có đạo tình, đồng phát tâm đả thiền thất, lại yêu cầu Hư Vân ta ra làm chủ thất. Thật tình mà nói, đây là một nhân duyên rất thù thắng. Ngặt vì tuổi già sức yếu, lại thêm bệnh hoạn, nên ta không thể giảng nhiều được.
Đức Thế Tôn thuyết pháp hơn bốn mươi năm, lời hiển lời mật1, ngôn giáo đầy đủ trong ba tạng mười hai bộ. Nay đại chúng yêu cầu ta ra thuyết pháp, thì chỉ bất quá lặp lại lời thừa của Phật Tổ. Nói đến tông môn, lúc Đức Phật còn tại thế, lần nọ đang ngồi trên pháp tòa, có vua trời Đại Phạm bay xuống dâng hoa Kim Đàn cúng dường. Đức Phật liền đưa cành hoa Kim Đàn lên để dạy đại chúng. Lúc ấy, dưới tòa, đại chúng đều không hiểu chi hết, duy chỉ có tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm2, thật
tướng vô tướng, nay đem phó chúc cho ông”.
1. “Hiển” là hiển nhiên, lộ rõ; “mật” là bí mật, kín đáo; “lời” ở đây là ý, là lời thuyết giảng.
2. Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm: “nhãn” ở đây có nghĩa là con mắt của trí tuệ, “tạng” là chánh pháp, “chánh pháp nhãn tạng” là chánh pháp ở ngay nơi cái thấy của trí tuệ. Niết Bàn diệu tâm: Niết Bàn không ở đâu xa, chính là bản tâm thanh tịnh (còn gọi là chân tâm). Lời Phật dạy hàm ý thâm sâu rằng pháp môn vi diệu chính là đời sống mà chúng ta đang sống ngay tại đây và bây giờ, nếu chúng ta nhìn bằng con mắt của trí tuệ và chân tâm.

Đó là truyền ngoài giáo lý, không lập văn tự, đi thẳng đến pháp môn vô thượng 3. Người sau mù mờ cho đó là thiền. Nên biết rằng trong kinh Đại Bát Nhã, có kể đến hơn hai mươi loại thiền, mà tất cả đều không phải là cứu cánh. Duy thiền trong tông môn là không lập giai cấp 4, chỉ thẳng vào đất tâm, thấy tánh thành Phật 5. Do đó, không có quan hệ với việc đả thất hay không đả thất. Chỉ vì căn tánh chúng sanh ngày càng ngu mê, vọng tưởng đầy dẫy, nên chư tổ mới đặt ra phương tiện để nhiếp thọ6. Tông môn này 7, kể từ Tổ Ma Ha Ca Diếp truyền cho đến ngày nay, trải qua sáu, bảy mươi đời. Triều đại Đường và Tống (619 – 1278), gió thiền lan khắp thiên hạ, hưng thịnh một thời. Hiện tại, Thiền tông đến thời kỳ suy vi tột bậc, chỉ có vài nơi như Kim Sơn, Cao Mân, Bảo Quang còn giữ được chút tông phong. Thế nên, nhân tài trong tông môn thật hiếm hoi. Cũng tham thiền, nhưng đa số chỉ vì danh, mà không có thực thể.
3. Pháp môn vô thượng: pháp môn thâm sâu vi diệu, tối thắng.
4. Lập giai cấp: phân biệt cao thấp.
5. Thấy tánh thành Phật: thấy được thật tánh, tức chân tánh của mọi sự vật, là giác ngộ.
6. Nhiếp thọ: có thể hiểu là cảm hóa, là khiến cho người ngưỡng mộ tự động đến học tập, thỉnh giáo với mình.
7. Ý nói Thiền tông.
Khi xưa, Thất Tổ Hành Tư hỏi Lục Tổ Huệ Năng: “Làm thế nào để khỏi lạc vào giai cấp?”.
Lục Tổ hỏi lại: “Ông đã từng làm những gì?”.
Ngài Hành Tư đáp: “Thánh đế còn chẳng làm, thì có gì là giai cấp?”.
Lục Tổ thầm chấp nhận, hứa khả 8.
Hiện tại, căn khí chúng ta rất cứng cỏi9, nên chư vị đại Tổ sư mới giả lập phương tiện, dạy khán thoại đầu. Sau đời Tống, người niệm Phật rất nhiều, nên chư đại Tổ sư lại dạy tham quán câu “Ai đang niệm Phật”.
8. Hứa khả: bằng lòng, đồng thuận.
9. Căn khí cứng cỏi: “căn khí” chỉ khả năng tiếp nhận đạo lý, chánh pháp; “căn khí cứng cỏi” hàm ý chưa thấm nhuần Phật pháp.
Ngày nay, mọi nơi đều theo pháp này mà dụng công, nhưng có rất nhiều người không hiểu rõ ràng, cứ để câu “Ai đang niệm Phật” nơi cổ họng, niệm đến niệm lui không dừng, thành ra tụng niệm, chứ không phải tham quán câu thoại đầu. Tham thoại đầu tức là tham khán. Thế nên, trong mọi thiền đường đều có treo bốn chữ “Chiếu cố thoại đầu”.
Chiếu tức là phản chiếu10. Cố tức là xoay trở lại. Nghĩa là phải tự phản chiếu, nhìn vào tự tâm. Gọi đó là quán thoại đầu.
10. Phản chiếu: quang chiếu hay soi chiếu ngược trở lại.
“Ai đang niệm Phật”, khi chưa khởi lên thì gọi là thoại đầu, còn khi đã khởi lên thì gọi là thoại đuôi. Chúng ta tham khán thoại đầu thì phải nên xem khán chữ “Ai”. Lúc tâm chưa khởi lên chữ “Ai” này thì như thế nào? Giống như lúc đang niệm Phật, có người đến hỏi: “Bạch thầy! ‘Ai’ đang niệm Phật vậy?”.
Nếu đáp: “Ta là người đang niệm Phật”, người kia có thể hỏi thêm:
“Thầy là người niệm Phật. Vậy miệng niệm hay ý niệm? Nếu nói miệng niệm thì lúc ngủ, sao không niệm? Nếu nói tâm niệm thì lúc thân này chết đi, sao không tiếp tục niệm?”.
Do đó, chúng ta có một nghi vấn, phải nên truy cứu: “Câu thoại đầu đây từ đâu mà đề khởi? Ta là ai?”. Vi vi tế tế, phản chiếu xoay lại, xem xét kỹ càng 11. Đó gọi là nghe lại tự tánh 12 của mình.
11. Vi vi tế tế: có nghĩa là rất nhỏ, kỹ càng, cặn kẽ, thâm sâu; nguyên câu này hàm ý là soi chiếu, quán sát chi tiết ở mức độ thâm sâu.
12. Tự tánh (hay Phật tánh): là bản tánh thanh tịnh của tâm.
Lúc đi bộ, hành hương, phải ngẩng đầu lên, chạm đến cổ áo. Chân phải bước theo dấu chân người trước. Tâm phải bình bình tịnh tịnh.
Không nên ngó sang đông sang tây13. Nhất tâm xoay lại, phản chiếu câu thoại đầu. Lúc ngồi, không nên ưỡn ngực về phía trước. Đừng để hơi thở quá cao, hay quá thấp. Để tự nhiên, tùy theo hơi thở. Lại phải thu nhiếp sáu căn 14. Phải buông bỏ muôn niệm. Luôn luôn, xoay chiếu lại thoại đầu, chớ bỏ quên mất. Đừng xem khán quá vi tế, nếu quá vi tế thì bị hôn trầm (tức buồn ngủ), lạc vào không vọng, không thể thọ dụng 15 chi được. Đừng xem khán quá thô16, nếu quá thô thì phù trầm (tức vọng tưởng) nổi lên, không thể khởi thoại đầu được. Nếu xem khán được thoại đầu thì công phu tự nhiên từ từ thuần thục, tập khí dần dần giảm bớt.
Người mới bắt đầu dụng công thì khó lòng mà xem khán được thoại đầu. Nói vậy, chư vị đừng sợ hãi, lại cũng đừng có vọng tưởng là muốn khai ngộ, hay cầu được trí huệ v.v… Nên biết, đả thất tức là vì việc khai ngộ tâm tánh, vì cầu trí huệ. Nếu lại khởi tâm cầu nữa thì ví như lấy đầu đặt lên đầu. Nay chúng ta đã hiểu rõ rồi thì chỉ lo đề khởi câu thoại đầu thôi.
Nếu trong lúc dụng công, không thể đề khởi thoại đầu lên, thì chớ có gấp rút, chỉ việc xả bỏ muôn niệm tình không, rằng rằng mịt mịt, xoay chiếu trở lại. Khi vọng tưởng khởi lên, hãy để chúng khởi, đừng màng đến, chúng sẽ tự nhiên lặng mất. Vì vậy, người xưa nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
13. Không nên ngó sang đông sang tây: không để tâm chạy tán loạn.
14. Thu nhiếp sáu căn: “thu” là bắt lấy, thu lại; “sáu căn” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; “thu nhiếp sáu căn” là giữ cho sáu căn đều không loạn, không nhiễm ái trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
15. Thọ dụng: là thọ nhận và thụ hưởng một cách đúng đắn các tiện nghi vật chất (chỗ ở, y phục, thức ăn…) hay mọi cơ duyên trong kiếp sống.
16. Đừng xem khán quá vi tế hay quá thô: “vi tế” ý nói khi thiền hay niệm Phật, không nhất thiết phải quán chiếu câu thoại đầu ở tầng ý nghĩa quá thâm sâu, cũng không nên để tâm quá sơ sài, hời hợt.
Vọng niệm khởi lên, mình chỉ dùng định lực xoay lại xem khán thoại đầu. Nếu mất thoại đầu, mình phải mau đề khởi lại. Mới ngồi thiền thì dường như là chỉ lo dẹp vọng tưởng, nhưng lâu dần thì thoại đầu từ từ khởi lên được. Khi ấy, chư vị có thể ngồi hết cả một cây nhang. Nếu không để mất thoại đầu thì kết quả sẽ rất tốt.
Ngôn ngữ chỉ là lời nói suông. Chư vị hãy nên chân thật dụng công.


Ngày thứ hai
Đả thất là pháp khắc kỳ thủ chứng17. Người xưa căn khí lanh lợi, nên không thường dùng pháp này, nhưng qua đời Tống thì pháp này từ từ được áp dụng. Đến đời Thanh, triều vua Ung Chính, pháp này lan rộng khắp nơi. Vua Ung Chính tại hoàng cung cũng thường đả thất. Ông rất tôn trọng Thiền tông. Đồng thời, công phu thiền định của ông ta rất phi thường. Dưới tay ông có hơn mười người ngộ đạo. Tổ Thiên Huệ ở chùa Cao Mân tỉnh Dương Châu cũng ngộ đạo dưới pháp hội của ông ta. Tất cả quy củ pháp chế thiền môn, đều do ông chấn chỉnh. Do đó, tông phong đại chấn, nhân tài xuất hiện rất nhiều.
17. Khắc kỳ thủ chứng: đặt ra một thời gian nhất định, một quá trình nhất định để dụng công, đi đến sự hiểu biết toàn triệt, thấu suốt.
Vì vậy, quy củ tông phong thật rất quan trọng. Pháp thức khắc kỳ thủ chứng, giống như thí sinh nhà Nho lúc vào trường khảo hạch, theo đề mục mà làm thơ, theo thơ mà được khảo thí, trong một thời gian hạn định. Đề mục đả thất của chúng ta được gọi là “tham thiền”, nên điện đường đều được gọi là “thiền đường”. Chữ thiền vốn là tiếng Phạn, dịch là thiền na, nghĩa là tỉnh lự18. Trong thiền lại có thiền Đại thừa, thiền Tiểu thừa, thiền cõi hữu sắc, thiền cõi vô sắc, thiền Thanh Văn, thiền ngoại đạo v.v…
18. Tỉnh lự (gốc chữ Phạn: Dhyan, hay thiền na): là tư duy an tỉnh và có trí huệ, tức định và huệ.
Thiền trong tông môn được gọi là “vô thượng thiền”. Nếu như trong thiền đường có người tham thấu 19 nghi tình 20, ngồi tòa thiền cắt đứt mệnh căn 21, tức đồng Như Lai không khác. Thế nên, thiền đường cũng được gọi là “Tuyển Phật trường”, tức là trường tuyển làm Phật, hay “Bát Nhã đường”. Sở học nơi các thiền đường đều là pháp vô vi 22. Vô vi tức là không có hành động tạo tác, không pháp để chứng đắc 23, không pháp để làm. Nếu là hữu vi thì đều nằm trong sinh diệt. Nếu chứng đắc được thì phải bị mất 24. Kinh nói: “Nếu có lời nói, đều là không thật nghĩa 25”.
19. Tham thấu: đi vào bên trong, tham cứu để hiểu tận cùng, rốt ráo.
20. Nghi tình: tình trạng nghi (vấn) hay vướng mắc. Theo pháp môn thiền, có nghi mới dẫn đến ngộ (giác ngộ), không nghi thì không ngộ.
21. Cắt đứt mệnh căn: “mệnh căn” là nguồn gốc của số mệnh, luân hồi hay sanh tử. “Cắt đứt mệnh căn” có nghĩa là đoạn dứt được mọi căn nguyên của phiền não.
22. Chánh pháp chính là pháp vô vi. Thấy được pháp vô vi là giác ngộ, là thấy được vạn vật đều sanh-trụ-hoại-diệt theo các nhân duyên, theo quy luật vận hành tự nhiên của nó, và biểu hiện của vạn vật ở mỗi thời khắc chỉ là tạm thời, chỉ là hình tướng hay còn gọi là pháp hữu vi.
23. Không pháp để chứng đắc: không có gì để chứng đắc.
24. Ý nói các pháp hữu vi nằm trong sinh diệt nên mọi lời nói, chứng đắc trên pháp hữu vi thì đó cũng chỉ là tương đối, sinh trụ hoại diệt theo pháp hữu vi.
25. Ý nói mọi lời nói, chứng đắc trên pháp hữu vi thì đó cũng chỉ là tương đối, sinh trụ hoại diệt theo pháp hữu vi.
Như tụng kinh, lễ sám v.v… tất cả đều là pháp hữu vi, ngôn giáo phương tiện quyền xảo 26. Còn tông môn 27 dạy chư vị trực nhận thẳng vào nguồn tâm, không có chỗ để dùng ngôn ngữ. Xưa kia, có một học nhân, tham vấn lão nhân Nam Tuyền: “Bạch Hòa thượng! Đạo là gì?”.
Ngài Nam Tuyền đáp: “Tâm bình thường là đạo28”.
26. Phương tiện quyền xảo: ý nói việc tụng kinh, niệm Phật, lễ sám… đều chỉ là những phương tiện để giúp người tu hành đạt đến cứu cánh là giác ngộ và giải thoát.

27. Ý nói tông môn thiền.
28. Tâm bình thường là đạo: “tâm bình thường”, tức thật tánh của tâm, là bản tâm thanh tịnh. Bản tâm thanh tịnh thì thấy được chân tánh của vạn pháp và giải thoát, đó cũng chính là đạo.
Thường ngày, chúng ta ăn cơm mặc áo, ra vào làm lụng, nghỉ ngơi, đều không hợp với đạo. Vì chúng ta tùy theo cảnh mà đắm nhiễm, chấp trước, không nhận ra tự tâm mình vốn là Phật. Thuở trước, Thiền sư Pháp Đường ở núi Đại Mai, lúc mới gặp Mã Tổ, liền hỏi: “Bạch Hòa thượng! Phật là gì?”.
Mã Tổ đáp: “Tâm tức là Phật”.
Ngài liền đại ngộ, lễ bái rồi từ biệt Mã Tổ, đến núi Mai Tử ở huyện Tây Minh, kết am ẩn tu. Đời Đường, niên hiệu Trinh Quán (785 – 804), dưới hội của Thiền sư Giám Quan có một vị tăng đi hái quế, bị lạc đường, đến am ngài Pháp Đường, liền hỏi: “Bạch Hòa thượng! Ngài ẩn tu nơi đây đã bao lâu rồi?”.
Ngài đáp: “Chỉ thấy núi bên phía tây xanh rồi lại vàng”.
Tăng hỏi tiếp: “Bạch Hòa thượng! Vậy đường nào dẫn ra khỏi núi này?”.
Ngài đáp: “Ông cứ men theo con suối này mà ra”.
Vị tăng trở về thuật lại cho Thiền sư Giám Quan nghe. Giám Quan bảo: “Tại Giang Tây, thầy từng gặp một vị tăng, nhưng bấy lâu nay không nghe tin tức, vậy chắc là ngài rồi”.
Sau đó, Thiền sư Giám Quan liền bảo tăng đi thỉnh ngài Pháp Đường về chùa. Ngài Pháp Đường làm kệ:

“Cây khô trong rừng lạnh,
Mấy độ xuân về, tâm nào chuyển,
Lão tiều phu không thèm ngó,
Dinh nhân truy tìm chi mệt nhọc,
Trong hồ sen nở vô số y,
Hoa tùng ăn mãi vẫn còn dư,
Nay bị thế nhân biết nơi ở
Lại phải dời am vào tận núi sâu!”

Mã Tổ nghe ngài đang trú trong núi, nên bảo tăng đến chỗ đó mà hỏi: “Bạch Hòa thượng! Ngài gặp Mã Đại sư, được sở đắc gì mà trụ nơi đây?”.
Ngài đáp: “Mã Đại sư dạy rằng tức tâm tức Phật, nên ta mới đến đây”.
Tăng nói: “Gần đây Mã Đại sư giảng thuyết Phật pháp có khác”.
Ngài hỏi: “Khác như thế nào?”.
Tăng đáp: “Mã Đại sư dạy rằng phi tâm phi Phật”.
Ngài đáp: “Lão già làm mê loạn người chưa có ngày nào thôi 29. Mặc lão phi tâm phi Phật, còn ta chỉ biết tức tâm tức Phật”.
29. Ý nói người chưa tu ngày nào, chưa hiểu nhiều về đạo.
Vị tăng trở về, thuật lại sự việc này cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ liền dạy: “Trái mai đã chín”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy rõ tín tâm của người xưa thật là kiên cố.
Vì căn cơ chúng ta quá kém cỏi, nên chư đại Tổ sư mới dạy tham quán câu thoại đầu. Thật là một việc làm miễn cưỡng. Tổ Vĩnh Gia 30 nói:
30. Vĩnh Gia Huyền Giác (665 – 713) là thiền sư Trung Hoa đời Đường. Ngài tinh thông cả ba tông – Thiền, Thiên Thai, và Hoa Nghiêm

– nổi tiếng với hai tác phẩm là Chứng đạo ca và Thiền Tông Vĩnh Gia tập.
“Chứng thật tướng,
Không người không pháp,
Sát na diệt,
Hết nghiệp nơi ngục A Tỳ
Nếu lấy lời giả dối chúng sanh,
Tự chiêu địa ngục cắt lưỡi hằng sa kiếp!”

Tổ Cao Phong 31 bảo: “Người học đạo như lấy một viên đá, liệng xuống đáy hồ, rồi lặn xuống mà nhặt nó lên”.
31. Cao Phong Nguyên Diệu: Thiền sư thuộc tông Lâm Tế cuối đời nhà Tống, Trung Hoa, còn có danh hiệu là Cao Phong Diệu Tổ.
Chúng ta khán thoại đầu cũng như liệng câu thoại đầu này xuống đáy hồ, rồi phải nhìn thẳng xuống đáy hồ mà tìm cho ra nó.
Tổ Cao Phong lại phát nguyện: “Nếu người học đạo, khi khởi câu thoại đầu mà không có hai niệm, thì trong bảy ngày, nếu không ngộ đạo, ta nguyện sẽ mãi bị đọa trong địa ngục cắt lưỡi!”.
Lòng tin của chúng ta không kiên cố, tu hành không chân thật, vọng tưởng không xả bỏ. Nếu có tâm thiết tha vì sự sanh tử 32, thì một câu thoại đầu quyết không để quên mất. Tổ Quy Sơn bảo: “Đời đời nếu không thối chuyển, quả vị Phật quyết định sẽ đạt được”.
32. Có tâm thiết tha vì sự sanh tử: tha thiết tìm cầu để hiểu nghĩa lý chân thật của sự sanh tử, quyết tâm tu hành để giải thoát.
Người mới phát tâm học đạo, nói chung vọng tưởng rất nhiều. Chân cẳng thường bị đau nhức, không biết phải dụng công như thế nào. Thật ra, chỉ quan trọng nơi tâm tha thiết vì sự sanh tử, bám chặt vào câu thoại đầu, không phân biệt đi đứng nằm ngồi. Từ sáng đến tối, xoay chiếu lại nó mãi 33 như ánh trăng thu vằng vặc, rõ rõ ràng ràng, không lạc vào hôn mê, không lạc vào trạo cử 34, quả vị Phật sao lo không có phần! Nếu hôn trầm (tức cơn buồn ngủ) nổi lên, chư vị phải mở mắt thật to, nới rộng dây lưng, thì tinh thần sẽ tự phấn chấn trở lại. Khi ấy, đừng khởi câu thoại đầu quá vi tế, vì dễ lạc vào hôn trầm và không vọng. Nếu để tâm tự nhiên, thì chỉ còn một mảnh thanh tịnh tràn khắp. Lúc đó, chớ để mất câu thoại đầu, mới tiến bộ được. Nhưng nếu lạc vào không vọng thì không phải là cứu cánh. Nếu khởi thoại đầu quá thô thiển, vọng tưởng dễ dàng sinh lên. Lúc đó, khó mà điều phục được trạo cử. Thế nên, khi ấy phải dung hòa là trong thô thiển có vi tế, trong vi tế có thô thiển 35, thì công phu mới đắc lực, đạt đến cảnh giới động tịnh nhất như 36.
33. Xoay chiếu câu thoại đầu: “xoay chiếu” còn gọi là kéo mũi, vì hành động đưa (nó) quay trở lại giống như kéo mũi trâu trở về chuồng khi chăn trâu, không để nó hướng ra bên ngoài hay phóng chạy ra ngoài đồng cỏ. Khái niệm “xoay chiếu câu thoại đầu” nghĩa là dùng câu thoại đầu (ví dụ, “Ai đang niệm Phật”) soi chiếu tự tâm, để tâm an trụ và tương ưng với câu thoại đầu đó. Sự quay vào soi sáng bên trong giữ tâm thanh tịnh, đi đến chỗ thấy rõ thật tánh của tất cả các pháp, giải thoát.
34. Trạo cử: trạng thái không yên ổn của tâm vốn do theo đuổi các đối tượng dễ chịu. Trạo cử là một trong năm chướng ngại chính cản trở sự thành công trong hành thiền.
35. Vi tế: thể hiện giáo pháp thâm sâu; thô thiển: trái nghĩa với vi tế.
36. Động tịnh nhất như: là động tịnh như nhau, tức động hay tịnh đều không là chướng ngại.
Xưa kia, những khi chạy hương ở chùa Kim Sơn và các chùa khác, thầy Duy Na dâng hương xong, liền cùng đại chúng chạy như bay. Khi nghe tiếng mõ đánh, liền đứng khựng lại như người chết. Như thế, còn đâu vọng tưởng, hôn trầm? Vậy lúc chạy có khác gì lúc ngồi thiền đâu? Khi ngồi thiền, chư vị đừng để câu thoại đầu quá cao, vì dễ bị phù trầm 37. Lại không nên giữ câu thoại đầu trước ngực vì sẽ sinh bệnh.
Cộng thêm, cũng đừng đè nén xuống. Nếu đè nén xuống đan điền, bụng sẽ phình to, dễ lạc vào cảnh năm ấm ma38, phát sinh nhiều bệnh tật. Chỉ thiết yếu là bình tâm tỉnh khí, tham khán chữ “Ai” mãi như gà ấp trứng, mèo rình chuột. Lúc xoay lại phản chiếu được rồi, mạng căn tự nhiên cắt đứt.
37. Phù trầm: nổi và chìm; trong pháp môn Thiền, chỉ hai trạng thái cực đoan của tâm. “Trầm” là chìm xuống, trong trạng thái buồn ngủ, nặng nề; “phù” là nổi lên, nghĩa là lăng xăng, không có định.
38. Ấm ma: năm ấm ma chỉ năm nhóm yếu tố – sắc, thọ, tưởng, hành, thức – tạo thành con người. Năm yếu tố này thường được gọi là năm uẩn (hay ngũ uẩn), khi dùng từ “ma” thì hàm ý đó là những yếu tố có thể trở thành chướng ngại dẫn đến phiền não.
Đương nhiên, người mới học pháp này, làm sao sánh bằng những vị đã từng tham học lâu năm, nhưng chư vị cũng nên cố gắng dụng công trong mọi thời khắc.
Ta sẽ kể thêm một ví dụ. Tu hành giống như mài đá lấy lửa. Phải có phương pháp rõ ràng. Nếu không, cho dầu đập nát đá ra, vẫn không có lửa. Cách thức là phải có một thanh sắt và mồi lửa. Nên để mồi lửa ngay dưới cục đá. Lấy thanh sắt cọ vào đá. Khi lửa từ viên đá cháy nháng lên, mồi lửa liền bắt được ngọn lửa. Đó là phương pháp lấy lửa duy nhất.
Hiện tại, chúng ta biết rằng tự tâm là Phật, nhưng lại không chịu thừa nhận, nên phải dùng câu thoại đầu làm mồi lửa. Lý dùng mồi lửa là như thế. Hiện tại, đối với cách lấy lửa, chúng ta không biết đến. Thế nên, không thể nhận ra tự tánh. Tự tánh của chúng ta đồng với chư Phật không khác. Vì vọng tưởng chấp trước nên không thể giải thoát. Do đó, Phật vẫn là Phật. Mình vẫn là mình. Chúng ta hôm nay biết mình là con của bậc Pháp Vương. Hãy nên tự tham cứu. Như thế có hay lắm không!
Hy vọng mọi người hãy cố gắng nỗ lực. Trên đỉnh trụ cây trăm thước, hãy bước thêm một bước nữa, để được trúng tuyển trong đạo tràng này, mới mong rằng trên đáp đền ơn chư Phật, dưới làm lợi ích cho loài hữu tình. Trong Phật pháp, không có nhân tài xuất hiện vì mọi người không dám nỗ lực tinh tấn tu hành. Nói ra thật đau lòng! Giá như tin sâu vào lời dạy của Tổ Vĩnh Gia và Cao Phong, quyết định rằng ai ai cũng sẽ ngộ đạo.
Mọi người hãy nên dụng công tham thiền!


Ngày thứ ba
Thời gian trôi qua mau chóng. Vừa nói đả thiền thất thì đã qua ba ngày rồi. Người biết dụng công, xoay lại tham chiếu câu thoại đầu được, thì tất cả trần lao, vọng niệm đều từ từ lắng đọng, rồi thõng tay đi thẳng về nhà. Vì vậy, người xưa nói: “Tu hành không cách chi hết, thiết yếu phải biết đường về. Lộ trình nếu rõ, sanh tử liền ngưng”.
Lộ trình của chúng ta, trọng yếu là xả bỏ thân tâm thì trong gang tấc sẽ về đến nhà. Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Niệm trước không sinh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”.
Bốn đại, đất nước gió lửa, vốn không. Năm ấm không thật có. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước, nên mến yêu ràng rịt thế gian huyễn pháp 39.
Đắm đuối không nhận ra bốn đại vốn không, nên sanh tử không thể dứt.
Nếu trong một niệm chẳng khởi sinh diệt thì không cần học Phật pháp.
39. Huyễn pháp: “huyễn” là ảo, không có thực; “pháp” là mọi sự vật hiện tượng. Theo đạo Phật, huyễn pháp hàm ý vạn pháp đều không thật có, không thường còn, là do nhân duyên tạo thành nên có sinh có diệt.
Khi ấy lo gì sanh tử không dứt được! Vì vậy, pháp trong tông môn giống như ánh sáng mặt trời, chiếu soi khắp mười phương thế giới.
Xưa kia, Tổ Đức Sơn, người Giản Châu, tỉnh Sơn Tây, tên tục là Chu, năm hai mươi tuổi xuất gia, thọ giới cụ túc. Ngài tinh tấn nghiên cứu tạng luật, cùng các kinh tánh tướng, nên quán thông được chỉ thú 40.
Ngài thường giảng kinh Kim Cang Bát Nhã.
40. Chỉ thú: mục đích tối hậu (của một học thuyết hay giáo thuyết).
Người thời đó thường gọi ngài là Chu Kim Cang. Ngài thường nói với chư vị đồng môn: “Một cọng lông hớp cạn nước biển. Tánh như biển cả, rộng vô cùng. Dệt nơi đầu kim, kim nhọn không động. Học đồng vô học, chỉ mình ta biết”.
Sau nghe Thiền tông thịnh hành ở phương Nam, ngài rất bực tức, bảo: “Người xuất gia, ngàn kiếp học oai nghi Phật, muôn kiếp học tế hạnh Phật, vậy vẫn chưa có thể thành Phật. Bọn quỷ ở phương Nam, dám nói trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật (chỉ rõ tâm chân thật, thấy tánh thành Phật). Ta phải quét sạch hang ổ, diệt hết những loài này, hầu mong báo đền ơn Phật!”.
Ngài liền quảy theo bộ Thanh Long Sớ Sao42, đi từ Tây Xuyên đến Phong Dương. Giữa đường, gặp một bà lão bán trà, ngài ghé lại định mua trà uống. Bà lão chỉ tay vào gánh đồ, nói: “Bạch Hòa thượng! Đó là kinh sách gì vậy?”.
42. Thanh Long Sớ Sao: là tên bộ chú giải kinh Kim Cang do Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám viết.
Ngài đáp: “Là bộ Thanh Long Sớ Sao”.
Bà hỏi: “Bạch Hòa thượng! Vậy sớ sao đó giảng về kinh gì vậy?”.
Ngài đáp: “Giảng kinh Kim Cang”.
Bà nói: “Con có câu hỏi, nếu ngài trả lời được thì xin cúng dường trà điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì xin hãy đi nơi khác. Kinh Kim Cang nói ‘Quá khứ, tâm không thể được. Hiện tại, tâm không thể được.
Vị lai, tâm không thể được’. Vậy theo ngài, kinh chỉ vào tâm nào?”.
Ngài không lời đối đáp, liền bỏ đi đến Long Đàm. Khi vào pháp đường, ngài hỏi: “Đã lâu nghe danh Long Đàm, nay đến đây, chẳng thấy Đàm (ao đầm), cùng không thấy Long (rồng) đâu cả”.
Nghe thế, Long Đàm bước ra, nói: “Ông đã đến Long Đàm rồi!”. Đức Sơn không trả lời được, liền ở lại chùa.
Đêm nọ, lúc Đức Sơn đang đứng hầu, Long Đàm bảo: “Đã khuya rồi, sao ông không về phòng nghỉ?”.
Đức Sơn liền trịnh trọng bước ra ngoài, nhưng lại trở vào, nói: “Bên ngoài trời tối om!”.
Long Đàm mồi một ngọn đèn rồi đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn định lấy ngọn đèn, nhưng Long Đàm liền thổi tắt. Ngay khi đó, Đức Sơn lập tức đại ngộ, vội quỳ xuống lễ lạy. Long Đàm bảo: “Ông thấy đạo lý gì mà lễ lạy ta?”.
Đức Sơn đáp: “Từ nay, không còn dám nghi đầu lưỡi của các lão hòa thượng trong thiên hạ nữa”.
Hôm sau, Long Đàm lên tòa bảo đại chúng: “Trong đây có một người, răng bén như lưỡi kiếm, miệng như bồn máu, bị ăn gậy mà không xoay đầu 43, sau này một mình lên núi, lập đạo của ta”.
Đức Sơn liền lấy bộ Thanh Long Sớ Sao ra trước pháp đường, nổi lửa mà đốt, nói: “Các lời huyền biện, như sợi lông mi ném trong hư không. Tận hết căn cơ thế nhân 44, như một giọt nước, ném vào biển cả”.
43. Các thế hệ thiền sư của Lâm Tế tông nổi danh về việc sử dụng cây gậy và tiếng quát để giáo hóa thiền sinh.
44. Tận hết căn cơ thế nhân: có nơi ghi là “hết sạch các trọng yếu trong đời”.
Nói xong, ngài lễ bái rồi bỏ đi, thẳng đến núi Quy Sơn, nách kẹp hành lý, lên tận pháp đường, đi từ hướng tây qua hướng đông, lại từ hướng đông qua hướng tây, rồi xoay lại nói với ngài phương trượng (tức Tổ Quy Sơn Linh Hựu): “Có chi không! Có chi không!”.
Tổ Quy Sơn ngồi trên tòa, chẳng thèm trả lời. Đức Sơn nói tiếp: “Không, không!”, rồi bỏ đi.
Ra đến ngoài cửa, Đức Sơn tự bảo: “Tuy là thế, phải nên cẩn thận!”.
Đức Sơn liền chỉnh đốn oai nghi, trở vào pháp đường, trải tọa cụ, thưa: “Bạch Hòa thượng!”. Tổ Quy Sơn định lấy chổi, Đức Sơn liền la lên, rồi đi ra ngoài pháp đường. Tối đến, Tổ Quy Sơn hỏi thầy thủ tọa: “Người mới đến hôm nay,
còn ở lại không?”.
Thầy thủ tọa đáp: “Bạch Hòa thượng! Khi mang đôi dép cỏ ra khỏi pháp đường thì ông ta bỏ đi mất”.
Tổ Quy Sơn bảo: “Kẻ này, mai đây một mình sẽ lên tận đỉnh núi, kết am khô, mạ Phật báng Tổ 45!”.
45. Tương truyền, những lời dạy của ngài Đức Sơn nổi tiếng là lạ lùng, khó hiểu, nghe phớt qua người thường có thể cho là “mắng Phật mạ Tổ”, nhưng nếu thấu hiểu thì thật cao siêu.
Ngài Đức Sơn qua Lịch Dương ở ba mươi năm. Gặp lúc vua Đường Võ Tông đang phá diệt Phật giáo, ngài lánh nạn ẩn tu trong hang núi Độc Phù. Đầu niên hiệu Đại Trung, thái thú Võ Lục là Tiết Đình Vọng sửa lại tịnh xá Đức Sơn, hiệu thiền viện Cổ Đức, định tìm cầu một vị tài đức về trụ trì. Nghe đạo hạnh Đức Sơn, ông liền đến thỉnh mời, nhưng ngài không thèm xuống núi. Tiết Đình Vọng bày mưu là phao du ngài giữ trà muối trái phép, phạm luật pháp triều đình, nên sai lính bắt ngài về huyện đường. Khi đến, ông liền lễ bái, cầu thỉnh ngài ở lại xiển dương tông phong.
Người đời sau thường bảo: “Đức Sơn la. Lâm Tế đánh 46”.
46. Thiền sư Đức Sơn nổi danh về việc sử dụng cây gậy và ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền (Tổ khai dòng thiền Lâm Tế) dùng tiếng quát để giáo hóa thiền sinh. Ở đây nói ngược lại (“Đức Sơn la. Lâm Tế đánh.”) có lẽ là hình thức đảo vị trí các cặp từ theo kiểu thành ngữ để thể hiện nghĩa ẩn dụ.
Nếu theo gương hai ngài, Đức Sơn và Lâm Tế, chúng ta lo gì không ngưng được sanh tử.
Sau ngài Đức Sơn là Nham Đầu. Sau Nham Đầu là Vân Phong. Sau Vân Phong là Vân Môn, Pháp Nhãn, lại đến quốc sư Đức Thiều, Tổ Vĩnh Minh, v.v… Tất cả đều từ gậy ngài Đức Sơn mà ra. Phật pháp từ các triều đại quân chủ cho đến nay, đều do chư đại Tổ sư trong tông môn chống giữ. Chư vị đả thất nơi đây, đều hiểu rõ đạo lý cao siêu, thì việc đi thẳng vào đất tâm, giải thoát vòng sanh tử, không khó cho lắm. Nhưng nếu đùa cợt, không dụng công chân thật, từ sáng đến tối, cứ mang mãi bóng hình quỷ ma 47, hay đào sâu hố văn tự48, thì đừng trách tại sao không cắt được sanh tử. Mọi người hãy nên nỗ lực tinh tấn dụng công.
47. Ý nói những chướng ngại, phiền não do vọng tưởng.
48. Ý nói không nên bỏ thời gian đi quá sâu vào môn phái, kinh điển mà thay vào đó dành nhiều thời gian tu tập để giác ngộ.


Ngày thứ tư
Bốn ngày thiền thất đã trôi qua. Chư vị đều tinh tấn dụng công, lại trình kệ lên, cầu ta ấn chứng49 Việc này thật rất khó làm. Nhưng chư vị chắc đã quên lời ta giảng trong hai ngày trước. Tối hôm qua ta có nói: “Tu hành không đường nào khác, cần thiết là phải biết đường về”.
49. Ấn khả chứng minh (gọi tắt là ấn chứng hay ấn khả): là từ dùng trong Thiền tông, chỉ sự xác nhận của thầy về mức độ thông đạt chân lý của môn đệ.
Hiện tại, khán thoại đầu là việc mà chúng ta phải theo sát. Mục đích tu hành của chúng ta là thành Phật, cắt đứt dòng sanh tử. Muốn cắt đứt sanh tử, phải dùng câu thoại đầu như bảo kiếm vương Kim Cang. Ma đến giết ma. Phật đến giết Phật50. Không chút tình lưu luyến. Không pháp để lập. Nếu thế, còn đâu vọng tưởng để làm thơ làm kệ, thấy hư không, thấy ánh sáng, thấy cảnh giới này, cảnh giới nọ ư? Dụng công như thế, ta không biết thoại đầu của chư vị đi đâu rồi! Người tu hành lâu năm, chính yếu chuyên cần tham khán chứ không phải dùng lời. Người mới phát tâm tu đạo hãy chú ý điểm này!
50. Ý nói người tu thiền giữ tâm thanh tịnh, không chạy theo bất kỳ vọng tưởng hay ngoại cảnh nào, dầu là “ma” hay “Phật”. Vì sợ chư vị không biết cách dụng công, nên ta mới giảng rõ duyên khởi của thiền thất, giá trị tu hành trong tông môn, và cách thức dụng công, qua hai ngày liền. Pháp dụng công của chúng ta, đơn giản là chỉ đề cử câu thoại đầu. Sáu thời, từ sáng đến tối, như dòng nước chảy, đừng để gián đoạn. Phải minh mẫn, nhận biết rõ ràng, chớ nên mê muội. Tất cả tình cảm phàm phu hay pháp giải thoát của chư thánh, hãy vung đao chặt hết.
Người xưa bảo:

“Học đạo như giữ cấm thành
Giữ chặt dầu trả giá cao
Không chịu trời lạnh thấu cốt xương
Hương thơm hoa mai sao phát được!”

Đó là kệ của Thiền sư Hoàng Bích. Bốn câu kệ này có hai ý nghĩa.
Hai câu đầu nói rằng học đạo như giữ cấm thành. Giữ thành trì nghiêm mật, chặt chẽ, không kiêng nể ai, luôn cấm ngặt ra vào.
Trong mỗi chúng ta đều có một tâm vương 51. Tâm vương tức là thức thứ tám, lại có thức thứ bảy, thứ sáu, thứ năm v.v… Năm thức trước là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Thức thứ sáu tức là thằng giặc ý thức 52. Thức thứ bảy là Mạt-na thức 53. Từ sáng đến tối, nó nhận lấy kiến phần của thức thứ tám làm bản ngã, rồi dẫn khởi thức thứ sáu, khiến thức này thống lãnh năm thức trước tham đắm vào các trần cảnh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu không đoạn được triền phược của mê hoặc thì tâm vương, tức thức thứ tám, bị trói chặt đến chết. Sau khi chết, thức thứ tám lại chuyển qua thân đời kế.
51. Tâm vương: còn gọi là thức, là một loại nhận thức. Theo Duy Thức tông (một tông phái của Phật giáo), chúng sanh có tám thức (tám loại nhận thức), trong đó tâm vương là thức thứ tám. Đây là loại nhận thức thuần túy, chỉ nhận thức đối tượng, không còn phê phán hay phân biệt tốt xấu. Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh thì thức được gọi là trí (jnana).
52. Thức thứ sáu, tức ý thức, là loại nhận thức vẫn còn những tri giác sai lầm gây ra phiền não.
53. Mạt-na thức: thức thứ bảy, còn gọi là nhiễm ô thức, là loại nhận thức vẫn còn chấp ngã.
Thế nên, hôm nay chúng ta bắt buộc phải dùng câu thoại đầu, tức bảo kiếm Kim Cang, để giết những tên giặc này, hòng giúp thức thứ tám chuyển thành “Đại Viên Cảnh trí”54, thức thứ bảy thành “Bình Đẳng Tánh trí” 55, thức thứ sáu thành “Diệu Quang Sắc trí” 56. Năm thức trước chuyển thành “Thành Sở Tác trí” 57. Nhưng điều khẩn thiết là phải chuyển thức thứ sáu và thứ bảy, vì chúng nắm vai trò lãnh đạo.
54. Đại Viên Cảnh trí: loại trí tuệ hoàn toàn thanh tịnh, khi đã xa lìa mọi nhiễm ô phiền não.
55 Bình Đẳng Tánh trí: loại trí tuệ không còn chấp ngã.
56 Diệu Quang Sắc trí (có chỗ ghi là Diệu Quan Sát trí): loại trí tuệ
không còn kẹt vào tri giác sai lầm.
57. Thành Sở Tác trí: loại trí có được khi năm thức giác quan đã thanh tịnh.
Hôm nay, chúng ta phải dùng câu thoại đầu để chuyển thức “phân biệt” thành “Diệu Quang Sắc trí”. Chuyển tâm so đo phân biệt mình người thành “Bình Đẳng Tánh trí”. Đó cũng gọi là chuyển thức thành trí, chuyển phàm thành thánh. Không để cho sáu tên giặc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xâm phạm “cấm thành”.
Hai câu sau, “Không chịu trời lạnh thấu cốt xương, hương thơm hoa mai sao phát được”, cũng là một ví dụ. Chúng sanh đang lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi ở ba cõi, bị năm món dục lạc trói buộc, bị trần lao làm mê mờ, không thể giải thoát. Nay, nói đến ví dụ về hoa mai. Hoa mai là loại hoa nở vào mùa đông giá lạnh. Muôn vật trên thế gian đều sinh trong mùa xuân, trưởng dưỡng trong mùa hạ, tàn rụi trong mùa thu, khô chết trong mùa đông. Vào mùa đông, hầu hết cây cỏ côn trùng đều bị khí lạnh làm chết, khô kiệt. Tuyết đóng trên đất nên bụi không bay được. Côn trùng, cây cỏ, tro bụi được ví như vọng tưởng phân biệt, vô minh, phiền não, ghen ghét v.v…, chúng ta nếu quét sạch hết chúng ra thì tâm vương, tức tự tánh, tự nhiên hiển hiện. Giống như hoa mai nở bông rộn rã trong mùa đông giá lạnh. Thật vậy, chư vị phải biết rằng, hoa mai nở bông trong mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người. Nếu chúng ta mê muội vì những tâm thức triền phược58 thì tâm tánh sẽ thành vô ký 59. Nếu tạo nghiệp xấu thì thành tánh xấu. Nếu tạo nghiệp lành thì thành tánh lành.
58. Triền phược: “triền” là xoáy vòng không đi tới được; “phược” là trói buộc. “Triền phược” là những thứ trói buộc các phát triển, giải thoát.
59. Vô ký: chưa xác định được là thiện hay ác.
Có hai loại vô ký là vô ký trong mộng và vô ký không vọng. Vô ký trong mộng tức lúc hôn trầm mê mộng. Trong mộng có cảnh huyễn. Ban ngày làm những việc mà không chú ý đến, đó là ý thức vô ký.
Chúng ta đang ngồi tọa hương mà bỏ mất câu thoại đầu, lạc vào trống không, mê mê mờ mờ, không biết chi hết, hay chỉ tham đắm cảnh giới tịch tĩnh. Thế nên, lúc dụng công, bị lạc vào thiền bệnh. Đó gọi là vô ký không vọng. Việc cần thiết là trong hai mươi sáu thời, luôn khởi câu thoại đầu, linh linh bất muội (sáng suốt, không mê), liễu liễu thường tri (rõ ràng thường biết). Đi cũng như thế. Ngồi thiền cũng như thế. Cổ nhân nói: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, dứt hết ngôn từ lời nói, thể động và tịnh đều an nhiên!”.
Tổ Hàn Sơn bảo:

“Trên đỉnh núi cao,
Bốn bề rộng vô ngần
Tĩnh tọa không người biết
Ánh trăng lặng lẽ,
Chiếu thấu suối ngàn
Suối trong không trăng
Trăng nơi trời xanh
Ngâm nga thơ kệ
Thơ chẳng phải thiền.”

Vì duyên lành với nhau, nên ta mới nói ra những điều này. Hy vọng mọi người nỗ lực tinh tấn, không nên dụng tâm tán loạn. Ta sẽ đưa ra một công án 60 nữa.
60. Công án: là từ dùng trong Thiền tông Phật giáo (phổ biến trong các dòng thiền Lâm Tế, Tào Động ở Trung Quốc và Nhật Bản), chỉ một phương pháp tu tập. Công án có thể là một đoạn kinh, một trải nghiệm để chia sẻ, một câu chuyện về một vị sư, một cuộc đàm thoại, vấn đáp…
Cũng như phương pháp “khán thoại đầu”, các vị thiền sư dùng công án làm phương tiện để giáo hóa và các thiền sinh dùng làm đối tượng quán tưởng trong lúc thiền để soi chiếu nội tâm, đi đến tâm thanh tịnh, giác ngộ. Phần lớn các công án được ghi lại thành tập, trong các tập như Vô môn quan, Bích nham lục, Thong dong lục, Lâm Tế lục.
Xưa kia, Tổ khai sơn, lập chùa Tất Đàn tại núi Kê Túc. Xuất gia xong, ngài đi đó đây tham thiền học đạo, rất mực tinh tấn dụng công.
Ngày nọ, ngài ghé qua một quán trọ, nghe cô gái trong quán bán đậu hủ ngâm thơ: “Trương đậu hủ, Lý đậu hủ. Đầu trên gối, nghĩ muôn ngàn chuyện. Sáng mai cũng vẫn bán đậu hủ”. Ngay trong lúc đang ngồi thiền tĩnh tọa, nghe cô bán đậu hủ ca ngâm như thế, ngài liền ngộ đạo. Vì vậy, thấy rõ người xưa, không phải là ở thiền đường mới dụng công, khai ngộ được. Dụng công tu hành, quý tại nhất tâm. Chư vị chớ phân tâm tán loạn, khiến thời gian trôi qua vô ích.
Nếu thế, ngày mai vẫn phải bán đậu hủ.


Ngày thứ năm
Phương pháp tu hành, nói dễ thì cũng rất dễ, còn nói khó thì cũng rất khó. Nói dễ nghĩa là chư vị chỉ cần xả bỏ tất cả, có lòng tin chắc thật, phát tâm kiên cố, lâu dài, thì mới thành công được.
Nói khó là vì chúng ta sợ khổ, muốn hưởng sung sướng, an lạc. Nên nhớ rằng muốn thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào trên thế gian, chúng ta phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện, huống hồ chi nói đến việc học pháp thánh hiền, để mong thành Phật thành Tổ. Cứ dễ duôi 61 thì làm sao thành công được? Thế nên, điều thứ nhất là phải có tâm kiên cố, vì người tu hành học đạo không thể tránh khỏi ma chướng. Ma chướng là cảnh nghiệp trần lao như màu sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm, pháp trần 62 mà ta đã nói đến tối hôm qua. Nghiệp cảnh này là oan gia sanh tử của chúng ta. Đó là nguyên nhân mà nhiều vị pháp sư giảng kinh, vì không nắm vững điểm này, nên đạo tâm không kiên cố.
61 D.ễ duôi: buông thả, dãi đãi, lười biếng, không tinh tấn.
62. Pháp trần: là tất cả những hình ảnh, mùi hương, âm thanh… từ ngoại cảnh được lưu lại trong tâm thức. Có sáu trần cơ bản là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với trần thì hình thành nên thức (tức nhận thức). Cùng một cảnh (tức duyên cảnh bên ngoài), nhưng khi chuyển thành pháp trần, đối với người này là chuyện an vui, nhưng đối với người khác lại là phiền não, khổ đau, là do nhận thức. Kế đến, phải phát tâm tu hành dài lâu. Trên thế gian, chúng ta tạo nghiệp vô số. Khi bắt đầu tu hành, muốn thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, có thể nào xả bỏ được hết tập khí xấu xa trong một lần được đâu?
Như Tổ Trường Khánh xưa kia, ngồi rách cả bảy chiếc bồ đoàn. Tổ Triệu Châu 63, năm tám mươi tuổi, ra ngoài hành cước học đạo, bốn mươi năm tham khán một chữ “Vô”, dụng tâm không tán loạn, sau đó mới đại triệt đại ngộ. Vô Vương cùng Triệu Vương rất sùng bái ngài, nên thường đến cúng dường. Đến đời Thanh, Hoàng đế Ung Chính, khi xem duyệt lại ngữ lục cao siêu của ngài, liền ban hiệu “Cổ Phật”. Đấy là do cả đời tu hành khổ nhọc, mới thành công được. Ngay đây, chúng ta nếu xả bỏ hết mọi tập khí xấu xa, lắng đọng thân tâm, liền bằng Phật Tổ không khác.
63. Tổ Triệu Châu: là một trong những vị thiền sư danh tiếng vào đời Đường của Trung Hoa. Ngài là môn đệ của Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện.
Kinh Lăng Nghiêm nói:

“Như lọc lấy nước
Giữ nước trong lành
Nước tịnh không động
Cát đá tự chìm
Nước trong liền hiện
Tức nhiếp khách trần64
Lọc cát đá ra
Chỉ còn nước trong.”

64. Khách trần: chỉ bụi bặm, phiền não từ bên ngoài đến, không phải của nội tâm. Theo đạo Phật, khi tâm đạt đến thanh tịnh thì phiền não thế gian sẽ chỉ như những khách trần.
Phiền não tập khí được ví như cát đá, vì vậy mới dùng thoại đầu.
Thoại đầu như lưới lọc cát khiến nước trong sạch. Người dụng công, nếu đạt đến chỗ thân tâm nhất như, tức cảnh tịnh xuất hiện, thì phải chú ý, chớ dừng lại mà không tiến bước. Nên hiểu rằng đó chỉ là cảnh giới thô thiển, phiền não vô minh chưa đoạn hết. Lúc ấy, tâm phiền não đã chuyển thành tâm thanh tịnh, như cát bụi lóng thì nước trong. Tuy vậy, dưới đáy nước, cát bụi vẫn còn, chưa được lọc ra, cần phải gia công thêm nữa. Cổ nhân nói: “Người ngồi trên đỉnh cột trụ trăm thước, tuy thấy mà không thật thấy. Nếu tiến thêm một bước nữa thì mười phương thế giới liền hiển hiện!”.
Nếu không tiến thêm một bước nữa, thì chỉ nhận “Hóa Thành” 65 làm nhà, phiền não vẫn còn cơ hội sinh khởi. Nếu thế, muốn tự mình giác ngộ, cũng rất khó. Vì vậy, phải lọc cát bụi, giữ nước trong, mới mong đoạn hẳn cội gốc vô minh mà thành Phật Tổ, sau khi cắt đứt gốc rễ vô minh, tùy thời mà hiện thân thuyết pháp khắp mười phương.
65. Hóa Thành: là chân lý tương đối, là chỗ hóa ra, là nơi nghỉ tạm thời dọc đường tu tập, chưa phải đích đến chân thật, sự hiểu biết toàn triệt, pháp thân hay Niết Bàn tuyệt đối.
Như Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ba mươi hai ứng thân66. Nếu người nào muốn hiện thân gì để được độ thoát, ngài sẽ vì họ mà hiện ra thân đó để thuyết pháp. Tự do tự tại, qua lại nơi thanh lâu tửu điếm, thai trâu thai bò, thiên đường địa ngục, không bị trói buộc. Ngược lại, một niệm phân biệt khởi lên, thì luân hồi mãi trong sáu đường. Thuở xưa, đời trước của Tần Tăng thường cúng dường tượng Địa Tạng với hương hoa đèn đuốc, nên mới được quả báo thiện lành, nhưng vì không phát tâm tu hành dài lâu, lại phiền não vô minh chưa đoạn hết, nên đời nay mới bị tâm sân tổn hại, khiến đọa lạc. Nếu tín tâm kiên cố, không thối thất, bền bỉ tu hành, dầu chư vị là ai đi nữa, thì chắc chắn sẽ thành Phật.
66. Theo Phật giáo Đại thừa, Bồ Tát hiện diện trên thế gian này trong nhiều ứng thân khác nhau, trong nhân dáng loài người để tùy vào từng loại chúng sanh mà giáo hóa.
Xưa kia, có một người nghèo xuất gia tại một ngôi chùa thuộc tỉnh Chương Châu, rất thật tâm tu hành, không biết khổ nhọc, không hỏi đạo với ai, ngày ngày đều khổ công làm lụng. Ngày nọ, có một vị tăng hành cước, ghé lại tạm trú nơi chùa. Vị khách tăng thấy người này làm lụng vất vả, bận rộn cả ngày, nên hỏi việc dụng công tu đạo hằng ngày như thế nào. Thầy đáp:
“Mỗi ngày con đều làm việc khổ nhọc. Xin thỉnh ngài dạy phương pháp tu hành.”
Khách tăng đáp: “Hãy tham khán công án ‘Ai đang niệm Phật’”.
Thể theo lời dạy của vị khách tăng, ngày ngày trong lúc làm việc, thầy luôn xoay lại, nhìn vào chữ “Ai”. Sau này, thầy vào núi thẳm rừng sâu tu hành, ăn đọt tùng uống nước suối, mặc áo rơm. Bấy giờ, cha mẹ chị em ở nhà, biết thầy tu hành khổ hạnh nơi núi sâu rừng thẳm, người mẹ liền bảo cô chị đem một cuộn vải cùng thức ăn đến cho thầy. Cô chị đến núi, thấy thầy đang ngồi thiền trong hang sâu, liền đến lắc vai, nhưng thân thầy không lay động. Cô kêu to lên, nhưng thầy vẫn không đáp lời. Tức giận, cô để lại tất cả đồ đạc, rồi trở về nhà. Thầy không một lời hỏi thăm gia đình, cứ mãi ngồi thiền trong hang động.
Mười ba năm sau, người chị lại đến thăm, thấy cuộn vải khi trước cũng để ngay tại chỗ xưa, chưa động đậy gì. Sau này, có người chạy lánh nạn ngang qua đó, bị đói khát, thấy thầy đang ngồi thiền, liền tiến vào hang, xin đồ ăn. Thầy liền đi vào trong hang sâu, lấy ra vài cục đá, bỏ vào nồi nấu, rồi mang ra, cùng ăn với người khách lạc đường, như ăn khoai vậy. Ăn xong, trước khi khách đi, thầy có dặn: “Xin đừng kể về bữa ăn này cho người ngoài biết”. Thời gian sau, vì nghĩ rằng trụ trong núi đã lâu, thầy muốn ra ngoài để kết duyên pháp. Do đó, thầy đi Hạ Môn, cất lều tranh, bán nước trà cho khách qua đường. Bấy giờ là đời vua Vạn Lịch (1573 – 1689).
Hoàng Thái hậu vừa mới qua đời, nên nhà vua thỉnh mời chư cao tăng đến hoàng cung, làm lễ cầu nguyện cho mẹ ông. Mới đầu, nhà vua định thỉnh tăng chúng ở kinh đô, nhưng vì không có vị cao tăng nào cả, lại thêm Hoàng Thái hậu báo mộng cho biết là tại Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, có một vị cao tăng, vì vậy nhà vua phái quan quân đến Chương Châu, cung thỉnh tất cả chư tăng về kinh đô, lập đàn tràng cầu siêu. Thế nên, tăng chúng Chương Châu đều lục đục kéo nhau lên kinh đô. Khi chư tăng đi ngang qua quán trà, thầy liền hỏi thăm nguyên do. Chư tăng đáp: “Hiện tại, chúng ta phụng theo chiếu chỉ nhà vua, lên kinh đô, lập đàn tràng cầu siêu độ cho Hoàng Thái hậu”.
Thầy hỏi: “Bạch chư hòa thượng! Vậy con có thể cùng đi với các ngài được không?”.
Chư tăng đáp: “Điệu bộ ông lôi thôi, xốc xếch, làm sao theo chúng ta được”.
Thầy nói: “Con không biết tụng kinh, nhưng có thể mang hành lý giùm các ngài”.
Chư tăng nhận lời, đưa hành lý cho thầy mang, rồi cùng nhau lên kinh đô. Khi ấy, Hoàng đế biết chư tăng tại Chương Châu đang trên đường đến kinh đô, nên bảo người chôn giấu một bộ kinh Kim Cang dưới cổng kinh thành. Các vị tăng Chương Châu không hay biết. Người người đều bước qua cổng thành, nhưng trừ thầy. Thầy quỳ xuống, chắp tay, không dám bước qua. Mặc dầu quân lính giữ cổng thành kêu réo, nhưng thầy vẫn không đi. Sau khi quan quân tấu trình sự việc, Hoàng đế rất vui mừng, biết thánh tăng đã đến. Lại sai người ra hỏi: “Hòa thượng đã đến, sao không vào kinh thành?”.
Thầy đáp: “Dưới đất có kinh Kim Cang, nên ta không dám bước qua”. Lại hỏi: “Tại sao Hòa thượng không đích thân mà vào thành?”.
Nghe thế, thầy liền chống hai tay xuống đất, đưa chân lên trời, rồi đi vào thành. Hoàng đế cung kính tột bực. Lại hỏi thầy cách lập đàn tràng cầu siêu. Thầy đáp: “Canh năm sáng mai, kiến lập một đài cao, cắm một cây phướn, đốt một ngọn đèn, dâng một đĩa trái cây để cúng dường chư Phật là đủ”.
Hoàng đế nghe vậy, lòng không vui, vì đàn lễ không long trọng. Lại sợ thầy không có đạo đức, nên cho hai cung nữ đến hầu hạ, tắm cho thầy.
Thân tâm thầy vẫn không động khi được hai cung nữ đến tắm cho mình.
Cung nữ tấu trình Hoàng đế. Nghe thế, Hoàng đế lại tăng thêm sự cung kính, biết thầy thật là một vị thánh tăng, nên theo lời mà kiến lập đàn tràng. Hôm sau, thầy lên tòa thuyết pháp, đăng đàn làm lễ, tay phất cây phướn trước quan tài Hoàng Thái hậu mà nói:

“Cái ta vốn không đến từ đâu,
Bà chớ có đắm đuối,
Một niệm không sinh,
Siêu thăng cõi trời!”

Làm Phật sự xong, thầy thưa với Hoàng đế: “Xin chúc mừng! Hoàng Thái hậu đã được siêu thăng!”.
Hoàng đế rất đỗi nghi ngờ, vì sợ làm đàn tràng quá đơn sơ như thế thì công đức chưa đủ. Đang khởi tâm nghi như thế, thì trên hư không có tiếng của Hoàng Thái hậu: “Hoàng đế! Hãy cảm ơn thánh tăng. Mẹ đã được siêu thăng rồi!”.
Nghe thế, Hoàng đế vừa sợ vừa mừng, cúi mình lễ bái tạ ơn, rồi thiết lễ trai tăng cúng dường. Thầy thấy Hoàng đế mặc quần thêu hoa gấm, nên mắt chăm chăm nhìn. Thấy vậy, Hoàng đế thưa: “Bạch Đại đức! Ngài muốn vật này à?”.
Nói xong, Hoàng đế liền tặng cho thầy quần gấm đó. Thầy nói:
“Cảm ơn ngài”.
Hoàng đế ban hiệu thầy là “Quốc sư Long Khố”.
Thọ trai xong, Hoàng đế dẫn thầy đến vườn hoa du ngoạn. Trong vườn có một bảo tháp. Thầy vừa thấy thì tâm rất vui mừng, đi đến xem coi. Hoàng đế thưa: “Bạch Quốc sư! Ngài muốn tháp này à?”.
Thầy đáp: “Tháp này tuyệt đẹp!”.
Hoàng đế thưa: “Bạch Quốc sư! Con có thể cúng dường ngài ngôi bảo tháp này”.
Nói xong, Hoàng đế liền sai người mang bảo tháp về Chương Châu.
Thầy liền bảo: “Không cần nhờ người mang. Tự ta đem về được”.
Nói xong, thầy liền bỏ tháp vào trong tay áo, rồi bay lên hư không, biến mất. Hoàng đế kinh hãi, run sợ, vui mừng, tán thán việc chưa từng có.
Chư vị! Hãy nhìn lại câu chuyện này. Kể từ khi xuất gia, thầy chưa từng dụng công tán loạn, đạo tâm luôn kiên cố. Người chị đến thăm, thầy vẫn không màng. Y phục rách nát, thầy vẫn không quản. Cuộn vải để trong hang mười ba năm mà không động đến. Chúng ta hãy tự hỏi chính mình, công phu có được như thế không? Chỉ nói trong một ngày một đêm, giả như có chị mình đến thăm, thì tâm có động hay không? Lại nữa, trong lúc chỉ tịnh 67, thấy thầy giám hương đi đốt hương, hay người khác đang động đang tịnh, liền giương đôi mắt nhìn. Dụng công như vầy, đến khi nào mới thành thục! Chư vị chỉ thiết yếu lọc bỏ bùn cát, thì nước trong tự nhiên hiện ra. Chư vị hãy đề khởi thoại đầu lên!
67.Chỉ tịnh: “chỉ” là dừng lại; “tịnh” là lắng hết, sạch hết; “chỉ tịnh” là dừng lại hết, yên lắng. Giờ chỉ tịnh là giờ nghỉ.


Ngày thứ sáu

Cổ nhân nói: “Ngày tháng qua mau như thoi đưa, thời gian vùn vụt trôi như tên bắn”.
Đả thiền thất, đến ngày mai là xong. Theo quy củ, sáng mai sẽ có tra khảo 68. Vì đả thất là cách thức khắc kỳ thủ chứng. Chứng nghĩa là chứng ngộ, tức thấy tận bổn địa phong quang69, hay ngộ đến Như Lai Diệu tánh. Đó gọi là chứng ngộ. Vì muốn biết trình độ công phu của chư vị trong bảy ngày, nên mới tra khảo, xem xét. Chư vị phải đối trước đại chúng mà thưa bạch rõ ràng những điều mình chứng biết. Khi đó, gọi là thâu nhặt tiền vé của tất cả mọi người 70. Nói cách khác, chúng ta tham gia đả thiền thất, nghĩa là ai ai cũng có thể khai ngộ, hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Hiện tại, không cần nói rằng ai ai cũng đều khai ngộ, nếu chỉ có một người khai ngộ thôi, thì cũng thâu được tiền vé.
Nghĩa là, một người trả tiền ăn cho mọi người. Nếu chúng ta phát khởi đạo tâm tinh tấn, thì ai ai cũng đều khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phàm phu thành Phật rất dễ. Dẹp trừ vọng tưởng lại rất khó”.
68. Tra khảo: ở đây có nghĩa là đối chất hay khảo hạch để đánh giá trình độ công phu tu tập của thiền sinh.
69. Bổn địa phong quang: “bổn địa” nghĩa là mảnh đất cố hữu hay bản tánh; “phong quang” nghĩa là hiển lộ hay hiển hiện rõ ràng; “bổn địa phong quang” (cũng thường gọi là “bổn lai diện mục”) nghĩa là bản tánh, hay thật tánh, xưa nay hiển thị rõ ràng. Theo đạo Phật, giác ngộ là thấy được bản tâm thanh tịnh, dứt bặt chướng ngại và phiền não.
70. Ý nói mỗi người tu tập đạt kết quả cũng nhờ công phu của nhiều người.
Từ vô thủy đến nay, chúng ta tham lam ái nhiễm, chấp trước nặng nề, nên mới bị lưu chuyển trong vòng sanh tử. Tám muôn bốn ngàn trần lao, bao loại tập khí71 xả bỏ không nổi, thì không thể ngộ đạo. Khác hẳn với chư Phật, chư Bồ Tát, những bậc thường giác không mê. Do đó, Đại sư Liên Trì nói:

71. Tập khí: “tập” có nghĩa là tập quen, cái gì thành thói quen thì khó chuyển đổi nên được gọi là tập; “khí” là cái không có hình chất mà cùng cảm ứng với nhau tạo thành; “tập khí” có nghĩa là những tập tánh được huân tập, hình thành do nhận thức. Theo đạo Phật, những tập khí cơ bản là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, được xem là những chủng tử, tức hạt giống phiền não, hay căn nguyên của phiền não, là chướng ngại cho tâm thanh tịnh. Những loại tập khí này thô hay tế (dễ nhận thấy hay tàng ẩn ở tầng thâm sâu khó nhận thấy), sâu hay cạn, nặng hay nhẹ khác nhau. Với những tập khí này, người tu hành phải chuyên cần tinh tấn và phải có một quyết tâm mạnh mẽ, luôn hành trì già dặn miên mật lắm mới có thể đoạn trừ được.

“Nhiễm duyên rất dễ,
Đạo nghiệp khó thành.
Không thấy việc trước mắt,
Muôn duyên sai biệt.
Xem cảnh như gió thổi ào ào,
Phá hoại rừng công đức.
Lửa tâm cháy phừng phừng,
Đốt rụi hạt bồ đề.
Đạo tâm nếu đồng tình tâm,
Thành Phật rất dễ dàng.
Nếu đối đãi chúng sanh như đối đãi ta
Việc của mình và người,
Không thấy mình khác người,
Tự nhiên trên cung dưới kính.
Phật pháp luôn luôn hiện,
Chặt đứt trần lao khổ não!”

Mười câu kệ trên nói rõ đạo lý chân thật! Nhiễm, tức nhiễm ô. Phàm phu đều tham tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, lợi lộc, lại luôn khởi tâm sân hận, gây chiến tranh, đối với hai chữ “đạo đức”, như chân bị đá buộc. Từ sáng đến tối, vui buồn giận tức, thương mến, ghen ghét, tham lam, ái nhiễm phú quý, vinh hoa. Không đoạn bao loại thế tình 72, không nghĩ nhớ gì về đạo. Thế nên, rừng công đức bị phá, hạt Bồ Đề bị đốt rụi. Nếu nhạt nhẽo với thế tình, tất cả bạn bè hay oan gia đều đối xử bình đẳng, xem mọi chúng sanh đều đồng nhau không khác, xem người đói như mình đói, nhìn người chìm như mình chìm, không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, thường phát tâm Bồ Đề, thì mới có thể tương ưng cùng đạo, chắc chắn sẽ thành Phật. Thế nên: “Đạo tâm nếu đồng tình tâm 73, thành Phật rất dễ dàng”.
72. Thế tình: chỉ mọi tham cầu, danh vọng thế gian. Tâm chạy theo thế tình là tâm vọng động, chứa những hạt giống phiền não.
73. Đạo tâm đồng tình tâm: là tâm không vọng động, thanh tịnh, từng niệm nghĩ về đạo. Đó là tức tâm Bồ Đề không chướng ngại.
Chư Phật thánh hiền, ứng hóa thế gian 74, trong mọi việc làm, đều vì lợi ích chúng sanh. Vì thế nói rằng cứu khổ, ban an lạc, khởi tâm từ, tế độ muôn vật. Nếu chúng ta tự kiềm chế, nhã nhặn, khiêm tốn, trong mọi việc làm đều không vì mục đích hưởng thụ cá nhân, thì người người đều không khổ nhọc, và việc làm gì đều cũng thành công. Đồng thời, quả báo chơn thật, thù thắng cũng được viên mãn tròn đầy, như thuyền nhấp nhô lên xuống đồng với mực nước. Nếu dùng tâm cung kính mà đối đãi người, không tự cao tự đại, không kiêu ngạo giả dối, thì khi gặp nhau, người khác nhất định sẽ có tâm cung kính tôn trọng mình.
74. Ý nói hiện diện trên thế gian trong ứng thân của chúng sanh để giáo hóa chúng sanh.
Ngược lại, nếu chỉ cậy vào tài năng, nộ khí75 tung hoành ngang dọc, hoặc miệng trái với tâm, luôn vì âm thanh sắc tướng, danh lợi mà lập chước76, mong mỏi người kính mình, thì không thể được. Khổng Tử nói: “Cung kính người, người hằng cung kính mình. Thương mến người, người hằng thương mến mình”.
75. Nộ khí: khí sắc giận dữ, hơi giận bốc lên.
76. Lập chước: bày mưu, bày cách khôn khéo.
Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Người lỗi ta không lỗi, lỗi ta quá hơn người”.
Thế nên, chúng ta hãy chặt đứt tâm đúng sai, mình người khác biệt.
Như chư Phật, chư Bồ Tát, làm mọi việc luôn vì lợi ích chúng sanh, nên thời thời thường gặt hái quả báo thiện lành. Nếu làm được như thế thì phiền não không thể trói buộc.
Đức Thế Tôn thuyết ba tạng kinh điển, mười hai phần giáo, chỉ vì muốn cứu giúp chúng ta cắt đứt ba độc 77 mà tu hành giới – định – huệ, phát khởi tâm từ bi hỷ xả, thực hành lục độ vạn hạnh 78, viên mãn đức tướng trí huệ, trang nghiêm pháp thân công đức. Nếu nương theo trên mà hành, thì nơi nơi đều biến thành thế giới Hoa tạng 79.
77. Ba độc: đạo Phật gọi tham lam, sân hận, si mê (gọi tắt là tham, sân, si) là “ba độc” vì đó là nguyên nhân của phiền não.
78. Lục độ: gồm bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, và bát nhã (trí huệ). Bố thí trị được tham; trì giới là tránh làm việc tổn hại chúng sanh; nhẫn nhục là để thấy được căn nguyên, gốc rễ của phiền não là mê chấp, đi đến tiêu trừ nóng giận; tinh tấn để trị lười biếng; thiền định diệt trừ sự tán loạn; bát nhã độ ngu si, mê lầm.
79. Hoa tạng thế giới (cách gọi tắt của Liên hoa tạng thế giới): là khái niệm của Phật giáo Mật tông, ám chỉ cõi của chư Phật.
Hôm nay tham gia đả thất, đa số là chư vị đại đức cùng người tại gia.
Chúng ta nên cố gắng hàng phục tâm mình, mau chóng rời xa triền phược 80. Ta sẽ nói thêm một công án nữa. Mong rằng những ai đã phát tín tâm tu hành, sẽ đạt được bảo vật. Nếu không thì chư vị tự cô phụ tín tâm của mình, đi về tay không. Hy vọng mọi người hãy lắng nghe.
80. Triền phược: là những thứ trói buộc các phát triển giải thoát.
Xưa kia, vào đời Đường, có cư sĩ họ Bàng tên Uẩn, tự Đạo Huyền, người Hàng Xung, tỉnh Hồ Nam, vốn theo nghiệp nhà Nho, liễu ngộ 81
trần lao khốn khổ, chí cầu đạo chân đế. Năm Trinh Quán nguyên niên, nghe đạo phong của Hòa thượng Thạch Đầu, nên ông đến bái kiến.
81. Liễu ngộ: là giác ngộ triệt để, là thấu hiểu sự thật của đời sống.
Ông hỏi: “Người không cùng muôn pháp làm bạn là ai?”.
Hòa thượng Thạch Đầu liền lấy tay che miệng ông. Ông liền hoát nhiên 82 nhận ra yếu chỉ.
82. Hoát nhiên: thông suốt, rộng mở. Hoát nhiên cũng hàm ý một khoảnh khắc lóe lên như những tia chớp, khi ngộ ra hay nhận ra được một chân lý.
Ngày nọ, ngài Thạch Đầu hỏi ông: “Từ khi gặp lão tăng cho đến nay, hằng ngày con làm những gì?”.
Ông đáp: “Nếu hỏi việc hằng ngày, tức môi miệng không có chỗ mở”.
Nói xong, ông liền trình kệ:

“Hằng ngày làm không khác
Chỉ mình hòa với chúng
Nơi nơi không chấp xả
Chốn chốn không tiếp thừa
Sao phân chia đỏ tím
Núi xanh chẳng chút bụi
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước cùng hái củi.”

Ngài Thạch Đầu chấp nhận, nói: “Con muốn làm tăng hay tục?”.
Ông đáp: “Bạch Hòa thượng! Con muốn làm những gì con thích!”.
Ông không xuống tóc xuất gia.
Sau, ông đến tham vấn Mã Tổ: “Bạch Hòa thượng! Người không cùng muôn pháp làm bạn là ai?”.
Mã Tổ đáp: “Đợi ông hớp cạn nước ngàn sông, ta sẽ chỉ bày”.
Nghe thế, ông liền lĩnh hội yếu chỉ, nên ở lại học hỏi về ngôn giáo.
Từ khi hiểu rõ nguồn tâm, ông không màng việc thế gian, chỉ đan giỏ tre sống qua ngày. Trong nhà có mười ngàn lượng vàng bạc, ông liệng hết xuống sông Trường Giang.
Hôm nọ, đang cùng bà vợ bàn về lý vô sinh83, ông bảo: “Khó! Khó!
Khó! Đem nấm để trên đỉnh cây thật khó!”.
83. Lý vô sinh: chân lý các pháp không sinh không diệt.
Bà vợ nói: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ sư trên trăm đầu ngọn cỏ”.
Con ông là cô Linh Chiếu nghe thế liền đáp: “Hai ông bà già, sao lại nói như thế!”.
Ông hỏi: “Vậy con nói như thế nào?”.
Cô đáp: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt thì ngủ khò!”.
Ông liền vỗ tay, nói: “Con trai không lấy vợ. Con gái không lấy chồng. Cả nhà thuyết vô sinh!”. Từ đó, danh tiếng của ông vang rộng khắp nơi.
Khi từ biệt đại chúng, ngài Lạc Sơn bảo mười vị thiền khách tiễn ông ra cổng. Đến cổng, ông lấy tay chỉ tuyết rơi trên không trung, nói: “Từng mảnh tuyết trắng, không bay lạc nơi khác”.
Có thiền khách họ Toàn đáp: “Bay lạc nơi nào?”.
Ông liền tát vị thiền khách này một bạt tai. Thiền khách họ Toàn nói: “Không được cẩu thả”.
Ông bảo: “Sao dám xưng là thiền khách. Vua Diêm La84 không cho ngài thoát đâu”.
84. Vua Diêm La: vị vua cai quản cõi Diêm La, tức Địa ngục.
Thiền khách hỏi: “Cư sĩ thường làm gì?”.
Ông đáp: “Mắt thấy như mù, miệng nói như câm”. Ông thường đến các giảng đường nghe giảng kinh.
Ngày nọ, vị giảng sư giảng kinh Kim Cang đến đoạn vô ngã vô nhân, ông liền hỏi: “Bạch tọa chủ! Nếu nói vô ngã vô nhân, vậy ai đang giảng kinh, ai đang nghe kinh?”.
Vị tọa chủ không lời đối đáp.
Ông nói: “Tuy là người thế tục, con hiểu yếu chỉ thô thiển đôi chút”.
Tọa chủ hỏi: “Theo ý cư sĩ thì như thế nào?”.
Ông đáp: “Không mình cũng không người. Sao có kẻ thân người sơ!
Khuyên ngài ngồi nghỉ ngơi, đừng đem chân lý cầu chân lý. Tánh Kim Cang Bát Nhã ngoài không chút trói buộc85. Nghe cùng tin nhận, chỉ là trần cảnh, giả danh 86”.
85. Ngoài không chút trói buộc: không bám chấp, không dính mắc với ngoại cảnh.
86. Giả danh: nghĩa là giả tạm, tức chỉ là hình tướng do nhân duyên hợp thành, có sinh có diệt.
Nghe thế, vị tọa chủ vui mừng khen ngợi ông đáo để.
Một hôm, ông hỏi cô Linh Chiếu: “Cổ nhân nói rằng trên trăm đầu ngọn cỏ, rõ ý Tổ sư. Vậy, con hiểu như thế nào?”. Cô Linh Chiếu đáp: “Ông già! Sao nói như thế được?”. Ông hỏi:
“Vậy con nói làm sao?”.
Cô đáp: “Trên trăm đầu ngọn cỏ, rõ ý tổ sư”.
Ông cười to. Lúc sắp mất, ông bảo cô Linh Chiếu: “Con ra ngoài xem coi mặt trời mọc đúng ngọ chưa?”.
Cô Linh Chiếu bước ra ngoài, chốc lát, rồi trở vào, nói: “Mặt trời ở giữa không trung, bị nguyệt thực. Cha bước ra xem”.
Ông tưởng thật, nên bước xuống tòa, đi ra ngoài cửa xem. Khi ấy, cô Linh Chiếu liền leo lên tòa ngồi của cha mình, xếp bằng, chắp tay, rồi thị tịch. Trở vào, thấy con mình đã mất, ông cười nói: “Con gái ta lanh lợi quá. Nó đi trước ta”.
Sau đó, ông đình lại bảy ngày để lo đám tang con mình. Khi quan Vu Công đến thăm bệnh, ông làm kệ, bảo:

“Chỉ mong dẹp sạch cái có,
Coi chừng những cái không,
Cuộc sống trên thế gian,
Như ảnh tượng và bóng.”

Nói xong, ông đặt đầu lên gối của quan Vu Công mà mất. Theo di chúc, thi thể ông được hỏa táng thành tro, rồi bỏ xuống sông. Bà vợ nghe tin, liền báo cho con trai biết. Cậu trai nghe xong, ngừng làm việc, đứng chống tay trên cán cuốc mà thị tịch, ngay tại đồng ruộng. Bà mẹ thấy thế, cũng tự ẩn mình, biệt dạng.
Chư vị hãy xem, bốn người trong gia đình, đều có thần thông diệu dụng như thế. Họ cũng là cư sĩ, nhưng dụng công rất thâm cao. Thế nên, hiện tại, đừng nói rằng trong cư sĩ không có nhân tài. Còn hai chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, đều đồng như Hư Vân ta không khác. Chư vị hãy cố gắng nỗ lực tinh tấn.


Ngày thứ bảy
“Chúc mừng chư vị! Công đức tu hành đến nay đã hoàn mãn. Chiếu theo quy củ của nhà thiền, những chư vị đã chứng ngộ, phải bước vào thiền đường để được khảo hạch, như những cuộc khảo thí ở kinh đô.
Hôm nay, là ngày tuyên bố thí sinh trúng tuyển. Chúng ta nên chúc mừng. Hòa thượng trụ trì thật là từ bi, quyết định rằng ngày mai sẽ tiếp tục đả thiền thất, để cho chư vị có thể gia công tu hành được mau tiến bộ.
Những vị tu hành lâu năm, chắc đều biết rằng đây là nhân duyên thù thắng. Vì vậy, đừng để thời gian trôi qua vô ích. Người phát tâm tu hành, phải biết thân người khó được87, sống chết là việc lớn. Nay đã được thân người, lại phải biết rằng Phật pháp khó nghe, thiện tri thức khó gặp.
Hôm nay, đích thân chư vị đến núi châu báu, đều phải nên ra sức nỗ lực dụng công. Chớ trở về tay không.”
87. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe: ý nói làm người là một cơ may hiếm có, tựa như một con rùa mù một trăm năm mới nổi lên mặt biển có thể chui đầu vào một bọng cây! Chúng ta được làm người trở lại cũng khó khăn như vậy. Phật pháp khó nghe vì Phật pháp nói lẽ thật, ngược lại với các pháp của thế gian, nên con người khó tiếp nhận.
Pháp trong tông môn, ta đã giảng qua. Từ lúc Thế Tôn cầm cành hoa dạy đại chúng, trải qua bao đời, đường hướng tông môn, được truyền cho đến ngày nay. Tôn giả A Nan, tuy là em của Phật, làm thị giả, hầu cận Đức Thế Tôn, nhưng vẫn chưa đại triệt đại ngộ. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, chư thánh tăng A La Hán không cho ngài A Nan tham gia hội kết tập đại tạng kinh điển. Tôn giả Ca Diếp bảo: “Ngài chưa đắc được tâm ấn của Đức Thế tôn. Thỉnh ngài ra ngoài xô ngã cột trụ”.
Nghe thế, tôn giả A Nan liền đại ngộ. Ngài Ca Diếp phó chúc, truyền tâm ấn Như Lai cho ngài A Nan. Như thế, ngài A Nan là vị Tổ thứ hai ở Ấn Độ. Đời đời tương truyền y bát88. Sau đời các Tổ Mã Minh, Long Thọ, có lão nhân Bắc Tề ở Thiên Thai, nhân xem luận Trung Quán, phát minh tâm địa, nên lập ra tông Thiên Thai89. Khi đó, tông môn được hưng thịnh khắp nơi. Sau này, khi tông Thiên Thai bị suy vi, có quốc sư họ Thiều qua Cao Ly phiên dịch kinh điển, rồi trở về xiển hưng, chấn chỉnh lại tông phong. Ngài Đạt Ma là vị Tổ Ấn Độ thứ hai mươi tám, truyền pháp sang Đông Độ 90, tức ngài là sơ Tổ của Trung Hoa. Từ ngài Đạt Ma truyền đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thì đuốc tâm khai sáng khắp nơi. Dưới Lục Tổ Huệ Năng có bốn mươi ba người khai ngộ. Từ Tổ Hành Tư truyền đến Tổ Hoài Nhượng, rồi đến Mã Tổ, lại có thêm tám mươi ba vị thiện tri thức. Lúc đó, chánh pháp hưng thịnh mạnh mẽ. Quốc vương, đại quan đều cung kính tôn trọng.
88. Tương truyền y bát: lưu truyền dòng pháp, hay giữ cho ngọn đèn giáo pháp không bị tắt qua các thế hệ.
89. Thiên Thai tông (Liên Hoa tông, Diệu tông, hay Pháp Hoa tông) khởi phát ở Trung Hoa, do Thiền sư Tuệ Văn đời Tần lập ra và Thiền sư Trí Di (538 – 597) hoàn thiện giáo lý. Giáo lý và thực hành của Thiên Thai tông dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa nên còn gọi là Pháp Hoa tông.
90. Đông Độ: tên gọi khác của Trung Hoa để phân biệt với Tây Trúc (tức Ấn Độ).
Tuy Đức Như Lai thuyết pháp rất nhiều, nhưng giáo chỉ tông môn thù thắng hơn hết. Như pháp môn niệm Phật, cũng do Tổ Mã Minh, Tổ Long Thọ tán dương. Sau ngài Huệ Viễn, có Thiền sư Vĩnh Minh, làm Tổ thứ sáu của tông Tịnh Độ. Sau này, có rất nhiều vị thiền sư trong tông môn hoằng dương tông Tịnh Độ.
Pháp Mật tông, phát triển từ đời Thiền sư Nhất Hạnh, sau đó truyền sang Nhật Bản. Ở Trung Hoa, từ đó trở đi, không người thừa kế.
Tông Duy Thức do ngài Huyền Trang đề xướng, chẳng bao lâu cũng diệt mất. Đơn độc, chỉ có tông môn là được truyền thừa lâu dài nhất. Thiên thần quy y, rồng hổ bái phục.
Trong chúng hội tiên nhân có Lữ Đồng Tân, hiệu Thuần Dương 91, người Kinh Châu, vào đời Đường, thi rớt ba lần không muốn về nhà. Lúc đi ngang qua một quán rượu ở Trường An, ông gặp Chung Ly Quyền dạy cho phép sống lâu không chết. Lữ Đồng Tân y theo đó tu hành. Sau này, phi hành tự tại, ông đi khắp thiên hạ. Ngày nọ, ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, bay lên lầu chuông, đề bốn câu thơ:
91. Có nơi ghi là Thống Dương.
“Một ngày an nhàn, thân tự tại
Sáu căn hòa hợp, báo bình an
Đơn điền có vật quý
Ngưng vấn đạo, đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền 92.”
92. Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền: ‘cảnh’ là ngoại cảnh, những gì đang xảy ra bên ngoài, ‘vô tâm’ ở đây có nghĩa là ‘tâm không’, là tâm không vướng mắc hay tham đắm. ‘Chớ hỏi thiền’: nếu ta có thể “đối cảnh vô tâm” là ta đã nắm thiền vững rồi, vậy cần chi hỏi về thiền nữa!
Sau đó, khi ông đi qua núi Hoàng Long, biến thành mây ngũ sắc. Vì nghi trong chùa có bậc dị nhân, nên ông vào chùa, gặp lúc ngài Hoàng Long đang ngồi tòa giảng kinh, đánh trống pháp vi diệu. Ông theo đại chúng vào pháp đường nghe pháp. Ngài Hoàng Long nói: “Hôm nay có người đến trộm pháp. Lão tăng sẽ không thuyết pháp”.
Lữ Đồng Tân liền bước ra, đảnh lễ, thưa: “Xin thỉnh Hòa thượng giải thích cho nghĩa của câu ‘Trong một hạt gạo, chứa đầy thế giới. Núi sông ngòi rạch đều chảy vào chiếc nồi nhỏ’”.
Ngài Hoàng Long nạt: “Con quỷ giữ tử thi” Ông đáp: “Nhưng trong bụng có giữ thuốc trường sinh”. Ngài Hoàng Long nói: “Sống cho tới tám muôn bốn ngàn kiếp, vẫn chỉ lạc vào không vọng, vô ích thôi”.
Bấy giờ, vì quên mất công phu “Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền”, Lữ Đồng Tân tức giận dữ dội, vung kiếm đâm thẳng vào ngài Hoàng Long.
Ngài Hoàng Long chỉ tay vào kiếm, kiếm tự rơi xuống đất, không thể nhặt lên. Lữ Đồng Tân bèn quỳ xuống, xin sám hối, thỉnh cầu Phật pháp.
Ngài Hoàng Long nói: “Để câu ‘Núi sông ngòi rạch chảy vào chiếc nồi nhỏ’ qua một bên, hãy trả lời cho ta câu ‘Trong một hạt gạo, chứa đầy thế giới’, là gì?”.
Lữ Đồng Tân nghe lời này, liền khế hợp93 huyền chỉ94, nên viết kệ sám hối:
93. Khế hợp: phù hợp (về ý khí), ở đây có nghĩa là ngộ, hiểu ra.
94. Huyền chỉ: ý chỉ u huyền, nghĩa lý thâm sâu (của đạo).

“Quăng đi bụng rỗng đàn cầm
Nay chẳng giữ vàng trong ngân
Vừa khi gặp được Hoàng Long
Mới biết xưa lầm dụng tâm.”

Đây là câu chuyện tiên nhân quy y Tam Bảo, cầu mong làm hộ pháp ở chốn già lam. Đạo giáo trong tay của Lữ Đồng Tân khi ấy rất hưng thịnh. Ông là Tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Bắc. Chân nhân Tử Dương cũng do xem Tổ Anh tập, mà rõ nguồn tâm, làm Tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Nam95. Thế nên, nhờ Phật giáo mà Đạo giáo được hưng thịnh trở lại. Khổng Tử truyền đạo đến Mạnh Tử thì thất truyền.
Đến đời Tống, tiên sinh Châu Liêm Khê96, do từ trong tông môn mà phát minh tâm địa. Trình Tử, Trang Tử, Chu Tử, v.v… cũng từ Phật pháp mà ra. Thế nên, tông môn trợ lực cho đạo Nho rất nhiều. Hiện nay, có lắm kẻ khinh khi tông môn, thậm chí hủy báng. Đó là muốn gieo nghiệp tội vô gián. Chúng ta hôm nay có duyên lành, gặp pháp hội thù thắng, phải nên vui mừng, phát nguyện rộng lớn, người người làm nơi nương tựa quy y cho trời rồng, khiến chánh pháp mãi hưng thịnh. Vì vậy, tham thiền học đạo không phải là trò chơi trẻ con. Hãy nên tinh tấn dụng công!
95 .Tổ Anh tập là một tác phẩm của Thiền sư Tuyết Đậu thuộc phái thiền Vân Môn. Câu này ý nói Đạo giáo và Phật giáo có nhiều điểm tương đồng nên các chư Tổ Đạo giáo cũng tham khảo kinh sách Phật giáo.
96. Châu Liêm Khê (hay Chu Liêm Khê): là danh xưng của Chu Đôn Di (1017 – 1073), một nhà Nho lỗi lạc của đời Tống, người tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa. Ông là một nhà Nho nhưng cũng thường tìm đến các thiền sư Phật giáo để đàm đạo.

 Video: Trich đoạn 

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Đường Mây trên Đất Hoa 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *