Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Chương Ba: Chức Năng của Tâm
TÂM VƯƠNG VÀ TÂM SỞ
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nói đến khía cạnh tâm lý về sự hiện hữu của chúng ta là tâm mà không dành cho một ý tưởng đặc biệt nào. Duy Thức Học Phật Giáo đã thấy tâm có thể phân chia thành tám phương diện tức tám thức, và đi xa hơn, thấy tám thức năng nổ tạo thành ba biến hiện chủ thể.
Trong Duy Thức Phật Giáo ở Đông Á, tám thức được biết chung như là tám tâm vương. Trong khi tâm thường được coi như một thực thể đơn thuần, khi được phân tích thành thể và dụng, danh từ tâm vương được sử dụng để làm rộng nghĩa danh từ “chủ,” hay “phần chính,” ngược lại với phần này là những chức năng phát sinh, căn cứ trên phạm vi tâm vương cơ bản, được gọi là tâm sở.
Trong Duy thức, cốt lõi của tâm vương cơ bản trước hết phải (hiểu) là để nhận ra khía cạnh chủ yếu hay tổng quát của sự vật, sau đó gây ra sự phân biệt, nhận thức rời rạc. Tâm-vương-như-là-thể, trước tiên thể hiện một loại nhận thức tổng quát, và khi bắt đầu hoạt động, những tâm hành khởi lên và bắt đầu quan sát đối tượng kỹ lưỡng, đồng thời tạo ra những ý nghĩ khác nhau.
Thí dụ khi chúng ta được cho xem một chiếc hộp xanh, tâm vương nhận biết chung chung đó là chiếc hộp màu xanh. Sau đó những tâm sở sẽ nhận biết chi tiết là phần chính của hộp màu xanh đậm, và cái nắp chỉ là màu xanh nhạt. Và dĩ nhiên, ý nghĩ sau đó là “Tôi muốn chiếc hộp này” cũng do tâm sở tạo ra. Dù đó là một vật, một người, hay một sự kiện, theo Duy thức chúng ta luôn luôn hoàn thành chức năng nhận thức qua tiến trình này.
Duy Thức cho là có 51 tâm sở, được phân thành 6 loại chính. Như đã giải thích trong Bách Pháp Minh Môn Luận, những tâm sở này được sắp xếp như sau:
- Tâm sở biến hành: tác ý, xúc, thọ, tưởng, tư.
- Tâm sở biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, tuệ.
- Tâm sở thiện: tín, bất phóng dật, quý, tàm, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, tấn, hành xả, bất hại.
- Tâm sở phiền não: tham, sân, mạn, si, nghi, ác kiến.
- Tâm sở tùy phiền não: phẫn, hận, não, phú, cuống, siểm, kiêu, hại, tật đố, xan, vô quí, vô tàm, bất tín, giải đãi, phóng dật, hôn trầm, trạo cử, thất niệm, bất chánh tri, tán loạn.
- Tâm sở bất định: thụy, hối, tầm, tứ.
Phát triển những từ chuyên môn này chỉ ra các tâm sở đều do kết quả công việc truyền thống lâu đời của các nhà triết học Phật giáo. Những vị này quán sát thái độ con người, và nhận diện chính xác thể cách tâm chúng ta hoạt động trong đời sống hằng ngày. Thuật ngữ này được tông Duy Thức phát triển thêm thành hình thái chính thức.
Thí dụ như nhóm tâm sở thiện gồm những tâm sở tốt cải thiện trạng thái tinh thần chúng ta. Giáo lý căn bản Phật giáo xác định rằng nếu cứ tiếp tục duy trì những tâm sở tốt, chúng ta sẽ đi tới cảnh giới của chư Phật hay chư vị Bồ-tát. Ngược lại, những tâm sở cứ liên tục mang lại phiền não cho thân và tâm của chúng ta là những tâm sở được liệt kê trong danh sách 26 mục tâm sở phiền não và tùy phiền não.
Những tâm sở này là tâm sở cụ thể tất cả chúng ta đều có trải nghiệm. Trình bày rõ ràng những chức năng cụ thể của tâm chính là việc chỉ dẫn đầu tiên chính xác theo đó Duy thức học Phật giáo cố gắng nghiên cứu hiện trạng tâm con người. Đây là quan niệm về nhân tính, cho rằng trong khi tập trung vào thái độ con người như một giao điểm giữa tính thiện và phiền não, cố gắng nhận ra đau khổ mà không để ý đến chiều sâu.
Duy thức cũng cho chúng ta biết rằng chính trong vòng rối ren vi tế của những tâm sở đã mang lại khổ đau cùng cực cho thân tâm chúng ta; và chỉ có thể thành lập thế giới tâm linh dựa trên sự phản ảnh chân thành trong dòng sống đời thường.
Vì chúng ta sẽ tiếp tục xem xét kỹ hơn với tâm sở thiện, tâm sở phiền não, và tâm sở tùy phiền não trong các chương 6 và 7, ở đây tôi sẽ bàn về tâm sở biến hành, tâm sở biệt cảnh và tâm sở bất định.
TÂM SỞ BIẾN HÀNH VÀ TÂM SỞ BIỆT CẢNH
1- Tâm Sở Biến Hành
Tâm sở biến hành là những chức năng tâm lý căn bản nhất hoạt động trong mọi hoàn cảnh, cùng một lúc với tâm vương và những tâm sở khác. Năm tâm sở biến hành gồm có: tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư. Trong bất cứ trường hợp nào, để có sự nhận biết, trước tiên tâm phải tỉnh thức và có sự quan tâm tới đối tượng.
Tác ý là tên của chức năng gợi lên sự quan tâm đến đối tượng, chức năng kích động tâm đầu tiên. Khi tâm kích động liên hệ với đối tượng, những điều kiện thiết lập sự nhận biết dần dần được thành lập.
Xúc đặt tâm vào tình trạng này, và cũng hỗ trợ cho những tâm sở thọ, tưởng và tư xảy ra sau đó.
Giờ đây, có một vấn đề là trong sự liên hệ với “cái tôi,” có phải đối tượng nhận biết mang đến niềm vui nỗi buồn hay là không vui không buồn?
Sự tiếp nhận đối tượng nhận biết được gọi là tâm sở thọ. Trong trường hợp đối tượng mang lại điều không vui hay đau khổ sẽ được gọi là khổ thọ. Những cảm giác dễ chịu được gọi là lạc thọ, và những cảm giác đối tượng mang lại không dễ chịu cũng không đau khổ được gọi là xả thọ. Những cảm giác này được xếp thành ba loại cảm thọ.
Trong quá trình nhận biết đối tượng, tâm chúng ta lẫn lộn cảm giác nhận biết ưa và ghét rất sớm, và vì có cảm giác là xả thọ, chúng ta biết rằng không phải lúc nào đối tượng nhận biết cũng liên quan tới tình cảm. Có muôn vàn đối tượng chúng ta nhận biết trong đời sống hằng ngày không mang lại cảm thọ và xúc động từng cặp như dễ chịu. khó chịu, khổ đau. hài lòng. Thí dụ chúng ta có thể xem xét cách tiếp nhận đối tượng nhận biết sẽ thay đổi khi đối tượng ấy lấn át khả năng nhận biết đang có.
Ta có thể hiểu Tưởng như tiến trình mang bản sao hình ảnh một vật gì đó vào tâm và kết hợp với lời nói. Tâm sở này vận hành theo cách chấp nhận sự vật là đối tượng nhận biết và làm cho ăn khớp với khuôn khổ thuộc về cái “tôi” đang tiếp nhận. Lúc đó ta hiểu được rõ ràng đích xác đối tượng được nhận biết là cái gì.
Mỗi người có một cấu trúc riêng để hiểu sự vật như một vấn đề tất yếu. Tuy thế trong khi cấu trúc của mỗi cá nhân có thể độc nhất, ai cũng bị ảnh hưởng sâu đậm của xã hội, chủng tộc và văn hóa. Tại sao lại như vậy? Vì cơ cấu căn bản của tưởng không gì khác hơn là ngôn ngữ. Sự tiếp nhận này được mô tả như được thi hành ở tầm mức của ý thức, có nghĩa việc sắp xếp những tin tức không gì khác hơn là cơ cấu ngôn ngữ.
Tuy nhiên, nói tới cơ cấu này lại phát sinh một hạn chế khác, và sự nhận thức rõ ràng hình thành trên căn bản ngôn ngữ có phải là một nhận thức hợp lý hay không lại là một vấn đề khác. Chức năng làm sáng tỏ thêm đối tượng nhận thức bằng cách ứng dụng ngôn ngữ một cách khéo léo lại là vấn đề không xuất hiện vào giai đoạn này của tưởng, đúng hơn, sẽ xảy ra trong phạm vi của hai tâm sở được biết đến như tầm và tứ; là hai tâm sở thuộc nhóm tâm sở bất định và sẽ được bàn tới trong phần sau đây. Hình ảnh vật nhận thức được sao chép rõ ràng và được hấp thu vào tâm. Tưởng phát sinh như chức năng của tâm làm cho ăn khớp với khuôn khổ ý tưởng và thái độ mỗi người.
Tâm hành tư được hiểu là có ba giai đoạn kế tiếp: (1) đánh giá, (2) quyết định, (3) bắt đầu hành động.
Đánh giá là chức năng tâm lý căn bản trên nhận thức một đối tượng căn cứ vào những giai đoạn xảy ra trước giai đoạn của các tâm sở tác ý, xúc, thọ, và tưởng; lúc ấy có lựa chọn liên quan đến hành động (nghiệp) về một đối tượng.
Quyết định là chức năng theo đó ta quyết định nên hay không nên làm một điều gì liên quan đến đối tượng. Phát khởi hành động là hoạt động của tâm tiếp nhận nội dung của quyết định, rồi phát khởi thành hành động cụ thể.
Về hành động cụ thể, chúng ta sinh hoạt hằng ngày theo ba phương thức: thân hành (việc làm), khẩu hành (lời nói) và ý hành (suy nghĩ). Thân hành là hành động bao gồm chức năng của thân, khẩu hành liên hệ tới thái độ nói năng, và ý hành là suy xét trong tâm. Tâm hành cũng có thể được hiểu theo nghĩa tích cực trong Phật Giáo như hành động ẩn mật xảy ra trong tâm chúng ta mà người khác không biết được.
Vì tâm hành tư là tâm hành tạo nên động cơ chính trong thái độ cụ thể của chúng ta, nên bản chất của ba nghiệp thân, khẩu, ý được tìm thấy trong ba giai đoạn của tâm hành tư. Thân nghiệp và khẩu nghiệp lấy sự phát khởi hành động như bản chất, và ý nghiệp (tư tưởng) lấy sự đánh giá và quyết định như bản chất.
2. Tâm Sở Biệt Cảnh
Tâm sở biệt cảnh khác với tâm sở biến hành trên phương diện chỉ vận hành với những đối tượng đặc biệt hơn là hoạt động trong mọi tình huống. Năm tâm sở biệt cảnh gồm có: dục, thắng giải, niệm, định và tuệ.
Về tính chất tạo nghiệp trên mặt đạo đức thuộc đối tượng của tâm sở biệt cảnh, và năm tâm sở này không trực tiếp liên kết với tính thiện, bất thiện, hay bất định. Trong khi hơi giống với trường hợp của tâm sở biến hành, tâm sở biệt cảnh được giải thích theo khuynh hướng đặt trọng tâm trên tâm hành thiện. Đó là cách Duy Thức Học Phật Giáo hệ thống hóa tâm, nhưng chúng ta cần phải nhớ rằng cuối cùng mục đích tối hậu chỉ là đạt được Phật tâm.
Dục là tâm hành từ đó ta thấy lôi cuốn, thích thú và quan tâm đến một đối tượng, hy vọng đạt được, hay ít nhất có thể thấy, nghe, hay nhận biết sâu sắc hơn. Khi tâm hành dục hoạt động theo đường lối thiện, sẽ có khả năng cống hiến chúng ta một chỗ đứng trong thế giới tôn giáo, vì trở thành nền tảng cho tâm hành tích cực và tinh tấn. Tâm hành căn bản sẽ hướng dẫn chúng ta theo con đường của Phật như con đường độc nhất mà không bị lạc lối chính là tâm hành dục thiện, tích cực.
Thắng giải là tâm hành biết được đối tượng và nắm giữ theo đường lối suy nghĩ có thể nhận biết rõ ràng. Tâm hành này cũng cùng hoạt động với tâm hành thiện, bất thiện hay bất định, nhưng trong khi với sắc thái căn bản chính xác thấy được trong từ thắng giải, cũng đã gắn liền sự tiên liệu về thiện ý. Thật ra chỉ ở đây thành tựu sự nhận biết vững vàng và toàn hảo, và không tán loạn. Trong từ thắng giải, không tán loạn có nghĩa nội dung nhận thức không dễ dàng suy hoại.
Tâm sở niệm bảo quản đối tượng đã được nhận biết trước đó để không quên. Vì tâm hành chúng ta có thể ghi khắc mạnh một cảm giác lên tâm không thể quên, chúng ta có thể rót tâm mình vào một đối tượng đã được nhận biết. Tâm sở cho phép chúng ta chú tâm sâu xa vào đối tượng mà không bị sao lãng là tâm sở định. Tâm sở này có tâm sở niệm hỗ trợ, và đến lượt tâm sở định giúp hỗ trợ cho tâm sở tuệ xảy ra sau đó.
Trong Phật Giáo, định thường được nói tới như một trong tam học: giới, định và tuệ. Trong trường hợp này, từ này ám chỉ đặc biệt thực tập tọa thiền, và được hiểu rộng rằng tuệ dẫn xuất từ tâm thái thiền định.
Tâm sở định thường được hiểu thông thường là hoạt động chiều hướng thiện, nhưng theo tiềm năng thì có khả năng hoạt động theo ba kiểu có tính tạo nghiệp về mặt luân lý là thiện, bất thiện, và bất định. Do đó hình thái định bàn thảo sau đây không hẳn nhập định (Tam-ma-bát-đề) cũng không phải định trong Tam vô lậu học (Giới-Định-Tuệ). Ở đây định là chức năng tâm lý của sự tập trung cao độ, khi chúng ta chú tâm vào một vật duy nhất trong cuộc sống đời thường. Đó là định bản hữu (vốn sẵn có) theo thuật ngữ Duy thức.
Có hai loại định trong Duy thức học Phật giáo; thứ nhất là định bản hữu, và thứ hai là định do tu tập, loại định sau đạt được qua hành trì đạo Phật miên mật. Khai phát chánh tuệ tùy theo trình độ tu tập định của hành giả.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể sách tấn mình một cách mạnh mẽ khi biết rằng có một nối kết thâm mật giữa định-do-tu-tập-khó-đạt và định bản hữu thuộc tâm hành chung mà ai cũng có.
Tuệ là tâm hành khiến chọn lọc hay loại bỏ đối tượng nhận thức. Ví dụ, mặc dù một túi xách có vẻ như là chánh hiệu Gucci, tuệ có thể phân biệt là đồ giả. Trên sự quyết định này, tình trạng nghi ngờ không biết là chánh hiệu hay không biến mất. Loại tâm hành này tên là tuệ.
Tâm sở tuệ cũng có thể vận hành theo tính chất tạo nghiệp về mặt luân lý là thiện, ác, và bất định. Trong đó, vì tuệ vận hành theo ác sẽ cho thấy có phán đoán đối tượng một cách sai lạc, nên được xếp vào đề mục tâm sở ác kiến nằm trong tâm sở phiền não. Ác kiến có mãnh lực kỳ lạ có thể đưa chúng ta lạc khỏi Phật đạo. Vì thế, vai trò của tâm sở tuệ trội hẳn so với những tâm hành khác.
Trong khi tâm sở biệt cảnh, nói một cách chung chung, là tâm hành hoạt động bên trong sáu thức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức, yếu tố cuối [trong nhóm tâm sở biệt cảnh] là tâm sở tuệ không những chỉ hoạt động trong sáu thức, mà còn trong vùng vô thức của Mạt-na. Như đã giải thích trước đây, Mạt-na đuổi theo nổi ám ảnh vô hạn về cái ngã không hề lầm lẫn, ngay cả khi hoạt động của thức thứ sáu đã ngưng. Trong chức năng chấp thủ sâu dày của Mạt-na thức, điều quan trọng đầu tiên là chọn lựa hay buông bỏ đối tượng chấp thủ. Chức năng của tâm buông bỏ đối tượng chấp thủ bởi Mạt-na thức không gì khác hơn là tâm sở tuệ thuộc tâm sở biệt cảnh. Do đó, tâm sở tuệ, như đã được giải thích trong Duy Thức, không những xảy ra đồng thời với thức thứ sáu mà cả thức thứ bảy.
TÂM SỞ BẤT ĐỊNH
Nhóm tâm sở bất định gồm bốn tâm sở: thùy, hối, tầm, và tứ. Bốn tâm sở này có những nét đặc biệt làm cho khó xếp vào nhóm của những tâm sở biến hành, tâm sở biệt cảnh, tâm sở thiện, tâm sở phiền não, hay tùy phiền não, và vì vậy chúng được xếp vào đề mục nhóm bất định. Thí dụ, những hoạt động của tâm ý đều xảy ra nơi thức thứ sáu, và vì vậy không thể được xếp loại trong nhóm những tâm sở biến hành. Những tâm sở biến hành phải xảy ra trong bất cứ tình huống nào của tâm vương và các tâm sở khác. Và, không giống những tâm sở thiện và tâm sở phiền não, tính chất tạo nghiệp về đạo đức thì bất định.
Tâm sở thùy không chỉ nói đến việc ngủ thôi mà còn có chức năng xảy ra vào lúc chúng ta ngủ. Buồn ngủ làm cho đầu óc mờ mịt, như thể trong tình trạng đờ đẫn hay rối rắm, chúng ta không nhận ra sự vật một cách chính xác, còn việc nhận ra được bản chất và ý nghĩa còn yếu hơn nữa. Chỉ khi bước vào trạng thái ngủ say, tâm sở thùy mới không hoạt động. Sở dĩ như thế vì lúc ngủ say, thức thứ sáu ngưng hoạt động.
Nhận ra được lỗi của mình còn được biết đến bằng từ hối. Tâm thái này dấy khởi khi chúng ta nghĩ lại hành động đã xảy ra, và kinh nghiệm những ý tưởng về hối được gọi là nhận lỗi. Chúng ta có thể nghĩ tới nghĩ lui tại sao chúng ta lại nói hay làm điều gì đó, và cho dù có đặc điểm gì chăng nữa liên quan đến hành động và hậu quả, cũng không mang lại thứ gì ngoài một trạng thái bứt rứt, lo lắng.
Tâm sở này có thể vận hành thiện, ác hay bất định. Nếu thiện, đặc tính căn bản là phản quán những việc làm sai trái trước đây, và ngay cả khi không nhất thiết là xấu, tâm trong trường hợp này vẫn không yên ổn. Vì tâm không yên nên tâm có khả năng gây ra phiền phức. “Phản quán nhưng đừng hối tiếc.” Nhiều người đã khắc ghi câu này ở nơi làm việc của họ. Con người chúng ta đi đâu chăng nữa trong đời cũng bị hối tiếc bao vây.
Như đã mô tả trong những đoạn về tưởng và tâm sở biến hành, tầm và tứ là những tâm hành tùy thuộc vào ngôn ngữ để làm sáng tỏ thêm và nghiên cứu sâu đối tượng nhận biết. Những tâm hành này, căn cứ trên mặt chức năng là những khía cạnh của tâm sở tư và tuệ, nhưng vì chức năng này nằm trong thức thứ sáu, thức suy nghĩ, nên không được hoàn toàn xếp vào nhóm tâm sở biến hành hay tâm sở biệt cảnh.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet