Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

Phụ Bản: Mở Khóa Bí Mật Giữa Sống Và Chết

Nguyên tác Anh ngữ: Unlocking the Mysteries of Birth & Death của Daisaku Ikeda

Việt dịch: Thuần Tỉnh

I. SỐNG VÀ CHẾT

XEM XÉT CÁI CHẾT TRONG BỐI CẢNH RỘNG LỚN

Văn minh hiện đại đã cố ý không nói đến cái chết. Chúng ta đã chuyển hướng cái nhìn, bỏ qua mối quan tâm hết sức cơ bản này, chủ tâm đẩy cái chết vào bóng tối.  Đối với nhiều người, chết chỉ là không còn sự sống, là sự trống vắng, rỗng không.  Sống đồng nghĩa với tất cả những gì tốt đẹp:  sự tồn tại, ánh sáng và những gì hợp lý.  Ngược lại, chết được cảm nhận như là xui xẻo, không còn gì cả, là sự tối tăm và bất hợp lý.  Cảm nhận tiêu cực về cái chết chiếm ưu thế.

Tuy nhiên chúng ta không thể bỏ qua cái chết. Hiện nay, nhiều người đang tranh cãi, đòi hỏi việc thẩm định và xác nhận lại giá trị của cái chết, gồm cả những câu hỏi về trường hợp bộ não bị chết trước, hay chết có phẩm giá, nhiệm vụ của các bệnh viện, kiểu cách và nghi lễ đám tang, và việc khảo sát cái chết và sự hấp hối của những người viết như bác sĩ Elizabeth Kubler-Ross.

Cuối cùng thì hình như chúng ta cũng sẵn sàng để chấp nhận sai lầm cơ bản khi nhìn vấn đề sống chết. Chúng ta khởi sự hiểu chết không chỉ thuần túy là không có sự sống, rằng cùng với đời sống sinh động, chết cũng cần thiết cho sự tạo lập một tổng thể lớn hơn, thiết yếu hơn. 

Tổng thể lớn lao này phản ánh sự tương tục sâu sắc hơn của việc sống chết mà mỗi cá nhân chúng ta thể nghiệm và cùng biểu lộ như một nền văn hóa.  Sự thách thức trọng tâm là kiến tạo một nền văn hóa xây dựng trên sự hiểu rõ mối tương quan giữa sống, chết và vĩnh cữu. Thay vì không thừa nhận sự chết, ta nên ngay đó mà đối diện và đặt nó vào đúng vị trí trong tổng thể rộng lớn hơn của cuộc đời.

Phật giáo nói đến Phật tánh sẵn có nằm sâu trong thực tại các hiện tượng.  Bản chất này lệ thuộc và cùng đáp ứng với các hiện tượng duyên sinh, luân chuyển giữa trạng thái tiềm tàng và hiển lộ.  Tất cả mọi hiện tượng, ngay cả sống chết, có thể xem như ở trong chu kỳ của hiển lộ và hiển lộ tiềm tàng, hay biểu thị và ẩn khuất.

Quy trình sống chết cũng y như việc thức và ngủ thay phiên nhau.  Giống như giấc ngủ chuẩn bị cho chúng ta làm việc ngày hôm sau, chết cũng có thể được xem như trạng thái nghỉ ngơi, bổ sung sức lực cho cuộc đời mới.  Nếu như vậy, chết cần được thừa nhận ngang với sống, như một ân sũng phải được trân trọng.

GIAI ĐOẠN CẬN TỬ

Bác sĩ Elizabeth Kubler-Ross được khắp nơi công nhận là người tiên phong trong việc khảo sát cái chết lâm sàng.  Bà quả quyết là những bệnh nhân đau nặng sắp chết thường đi qua năm giai đoạn cận tử.  Trước hết, khi nghe là mình đau nặng gần chết hầu hết bệnh nhân đều phản ứng một cách sửng sốt, từ chối không tin mình được chẩn đoán đúng.  Họ đổi bác sĩ nhiều lần, hy vọng là được đoan chắc một lần nữa rằng tình trạng của họ không đến nỗi chết người.  Giai đoạn thứ hai thường là giận dữ.  Bệnh nhân tuy chấp nhận việc mình sắp chết nhưng lại sân si với người chung quanh, cũng có thể giận luôn đấng thần linh của họ vì đã làm ngơ lời cầu nguyện xin được bình phục.  Giai đoạn thứ ba bệnh nhân muốn kèo nài với thượng đế hay số phận xin được kéo dài đời sống.  Giai đoạn này có thể được xem là thời gian ngưng chiến.  Tiêu biểu giai đoạn thứ tư là suy nhược tinh thần. Khi cái chết sắp đến, bệnh nhân từ từ lún sâu vào nỗi chán nản cùng cực, danh từ kỹ thuật gọi là “xuống tinh thần chuẩn bị chết.”

Sau bốn giai đoạn này, bệnh nhân đi vào giai đoạn thứ năm và cuối: chấp nhận.  Nếu bệnh nhân không nơi nương tựa tinh thần hay không được chăm sóc trong giai đoạn quyết liệt trước khi chịu chấp nhận; hoặc nếu sống cô quạnh trong bệnh viện, chắc chắn là họ sẽ chìm sâu trong niềm u uất. Ngược lại, nếu đã chấp nhận số phận, bệnh nhân sẽ chuẩn bị để chết một cách an nhiên, có phẩm giá.  Nếu có đức tin vững mạnh, dù theo bất kỳ tôn giáo nào, ngay cả giáo lý không tin vào một đời sống nối tiếp, bệnh nhân cũng sẽ chết nhẹ nhàng hơn những người không có tín ngưỡng.

Kubler-Ross bảo, có nhiều người chết mà lòng còn giận dữ hay u uất.  Những ai cưỡng nghịch với cái chết sẽ tạo thêm nhiều đau đớn cho họ.  Những ai chấp nhận một cách hời hợt việc họ sẽ chết, chỉ biết chấp nhận số phận, sẽ chết ít thanh thản hơn những người thực sự chấp nhận đời sống mình sắp chấm dứt.  Cho đến phút cuối, họ vẫn níu lấy hy vọng mong manh rằng họ không chết.

Ngược lại, trực diện với cái chết có thể khơi dậy cảm nhận thiện về lòng từ và nhân ái.  Đến lúc cận tử, những năng lực tốt và xấu tuôn trào ra từ ý thức chúng ta, từ điều mà Phật giáo gọi là “thức Alaya” hay kho chứa nghiệp. Thường thì cảm xúc xấu sẽ lấn lướt cảm xúc thiện.  Muốn điều phục xấu ác ta phải chuyển hoá nó, và phải làm cho năng lực thiện mạnh mẽ hơn.

Các sinh vật di chuyển không ngừng giữa sống và chết, vốn chỉ là hai giai đoạn của sự sống.  Con người tạo nhân ngay đời này để trổ quả trong tương lai.  Khi áp dụng luật nhân quả này vào đời sống, ta sẽ có được thái độ đầy hy vọng và xây dựng trong mọi việc hằng ngày, hiểu ra được giá trị thực sự của cuộc sống trong thế giới hiện tại. Tương lai không hiện hữu nếu không nối kết từ hiện tại và cũng không bất di bất dịch trong mức độ đơn giản.  Ta sống ra sao và như thế nào trong đời sống sắp đến đều tùy thuộc vào những gì mình đang làm. Mỗi một tư tưởng, lời nói đều có một vai trò sắp đặt tương lai, cả sống lẫn chết.  Luật nhân quả có giá trị với từng đời sống bởi nó lan tỏa và hình thành giòng chảy vĩ đại và bất tận của đời sống vũ trụ.

HÀM Ý ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG HIỆN TẠI

Như vậy, đâu là hàm ý thực tế của luật nhân quả, ảnh hưởng đến cách cư xử và thái độ chúng ta thế nào?

Trước hết luật nhân quả mang lại cho ta lòng can đảm đối diện với sống chết; giúp ta nhìn cái chết, không như điều bí mật đầy kinh hãi, mà là trạng thái bình thường của cuộc sống, sống chết luân phiên trong một quy trình bất tận. 

Điều thứ hai, luật nhân quả dạy ta biết trân quý cuộc sống đang có, sao cho càng sống xứng đáng càng tốt.  Nếu tận đáy lòng sâu thẳm, ta tin những hành vi hiện tại sẽ hình thành và quyết định cuộc sống tương lai, ta sẽ nỗ lực tự trau dồi và tận dụng những gì mỗi ngày hiến tặng cho ta.

Thứ ba, luật nhân quả dạy rằng, điều duy nhất để phát huy hết tiềm năng nhân loại là sống một đời công bằng, tử tế, nhân ái, từ bi; nhận thức được rằng mỗi một việc ta sắp làm có thể là nguồn phát sinh để tự phát triển và cải thiện.  Thật là đáng khuyến khích khi biết được rằng những quả tốt tích tụ từ tư cách của ta sẽ không bị mai một vì cái chết, vẫn tiềm ẩn trong đời sống và làm thăng hoa cái ngã bất diệt.

Cuối cùng, cách suy nghĩ trên giúp ta sửa đổi những khát vọng bản năng để thăng hoa cuộc sống.  Ta học tránh cạm bẫy của chủ nghĩa khoái lạc và bi quan, tìm được niềm vui và chân lý trong sự bi mẫn, hơn là niềm hy vọng mong manh được tái sanh lên thiên đường.

TIẾN TRÌNH CHẾT

Khi bước qua ngưỡng cửa tử vong – cửa nối liền cuộc sống này và cuộc đời kế tiếp – cả hai thành phần vật chất và tâm lý của chúng ta đều bị ảnh hưởng. Thái độ chúng ta trong giai đoạn này là điểm then chốt tạo điều kiện đi tái sanh đời sau.

Phật giáo xác nhận có 4 giai đoạn hiện hữu trong sinh mạng một con người: hiện hữu khi sanh ra . hiện hữu khi sống . hiện hữu khi chết . hiện hữu giữa chết và thời gian chuyển tiếp trước khi tái sanh, hay còn gọi là gian đọan trung ấm.

Hiện hữu trong lúc chết như vậy khác với lúc sống, vì giai đoạn chết hoàn toàn khác với giai đoạn sống.

Khi chúng ta trải qua cái chết đến giai đọan trung ấm (49 ngày), con người chúng ta bị chuyển hóa. Từ từ các căn hoại, chúng ta không còn thấy, nghe hay cảm nhận. Chức năng của thức trong sự nhận biết và duy trì cảm thức về cái ngã cá nhân cũng hoại; tên tuổi, địa chỉ và tài khoản trong ngân hàng cùng những sự việc khác không còn liên quan với chúng ta nữa. Quả báo của nghiệp, là nền tảng của bản ngã, vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến chúng ta ngay cả sau khi chết cũng như ấn định cuộc đời kế tiếp của chúng ta ra sao.

Tất cả hành động của chúng ta trong đời này đều cô đọng lại trong phút lâm chung thành một điều gì đó như là chủng tử nghiệp với tiềm năng nẩy mầm và đơm hoa cho đời sau. Gom nhặt chớp nhoáng quá khứ của mình trong phút lâm chung – điều mà vài người có kinh nghiệm về cận tử nói rằng họ thấy cuộc đời đã qua của họ như một tia chớp trước mắt – lúc đó chúng ta bị bắt buộc quán xét về quá khứ. Chúng ta sẽ ôn lại thái độ của mình phát xuất từ thamsân đã cắm rễ trong vô minh căn bản của kiếp người; chẳng hạn như phẫn nộ, đố kỵ, ganh tỵác cảm cá nhân .v.v., những nghiệp nhân xấu trong cuộc đời chúng ta. Trong sự hỗn loạn thông thường khi chết, chúng ta có thể sợ hãi rối ren và chống cự một cách hoảng hốt.

Chúng ta có thể có nhiều cảm xúc khi chết – hài lòng, bất mãn, vui, buồn và hối tiếc. Cách chúng ta sống ra sao chính là chuẩn bị cho giây phút này, và tu tập theo Phật giáo sẽ dạy chúng ta phải làm sao và duy trì khả năng sống tốt đẹp.

Trên quan điểm Phật giáo, khả năng vượt qua tiến trình chết một cách thành công tùy thuộc vào nỗ lực vững chắc và đều đặn trong lúc sống để tích lũy nhân và quả thiện và củng cố nền tảng thiện nghiệp cho đến ngày tận cùng của đời mình. Chúng ta có thể bước vào thân trung ấm (49 ngày) bình an và vui tươi nếu phút lâm chung, Phật tánh nơi chúng ta được đánh thức.

NIỀM TIN VÀO PHÚT LÂM CHUNG

Cái chết lâm sàng xảy ra khi thực sự chết hẳn, thời điểm được những triệu chứng vật lý báo hiệu như thành phần não bộ (brain stem), hơi thở và nhịp tim đều dứt. Lúc này, bản thân thể nghiệm cái chết. Năng lượng tâm lý và vật lý đều hoại, sự sống và nghiệp lực của nguời chết tiếp tục qua trạng thái không thể chất. 

CHẾT VỚI PHẨM CÁCH

Đạo Phật nói đến ba loại đau: vật lý, tâm lý và hiện sinh. Chết là sự liên kết cả ba.

Y học có thể làm nhẹ nhàng cái đau thứ nhất. Hệ thống an sinh xã hội và hỗ trợ của gia đình kết hợp với hệ thống y khoa làm vơi đi cái khổ tâm lý. Vượt qua đau khổ hiện sinh lại là một vấn đề khác. Đây là nỗi lo sợ hãi do ý nghĩ chính mình phải chết. Niềm tin về một đời sống vĩnh cửu giúp ta có một cách nghĩ về sống và chết và sự chiến thắng nỗi sợ chết. Nếu con người có thể hiểu quan điểm tâm linh về sống và chết, có thể gia tăng sức mạnh cho họ để vượt qua sự tuyệt vọng về ba nỗi khổ kể trên và đón nhận chương cuối đời mình một cách an lành và hoàn mãn.

Tiến bộ y học hiện đại giúp kéo dài thời gian trước khi chết của bệnh nhân trong giai đoạn cuối cùng của cơn bệnh. Do đó sự quan tâm chủ yếu của nền y khoa cấp tiến là tìm cách giúp đỡ người hấp hối để y có thể vượt qua sợ hãi và lo âu. Đây là lý do tại sao sự chăm sóc người bệnh vào phút cuối được quan tâm rất nhiều.

Trường hợp bệnh nan y khi lâm chung kề cận, ai cũng muốn giữ được lòng tự tin, tự trọng, điều phục các quan năng và giữ được phẩm giá. Chắc chắn thẩm quyền của bệnh nhân, kể cả quyền được chết đang được chú ý rất nhiều. Nếu không có những tiện nghi y học hiện nay, quyền được chết chỉ thuần là lý thuyết.

Y học đã có bước tiến rất lớn trong sự phát triển phương pháp trị liệu làm giảm nhẹ cơn đau và loại trừ nỗi thống khổ bệnh tật. Cuộc sống được kéo dài thêm nhờ kỹ thuật tinh xão. Tuy nhiên mặt thấp kém của những tiến bộ này không cách nào thay đổi được là sự tiếp tục duy trì những bịnh nhân đã rơi vào trạng thái thực vật. Từ đó phát sinh vấn đề đạo đức: một bệnh nhân hôn mê hay gần hôn mê không hy vọng chữa khỏi, sống bằng máy thở nhân tạo, được ăn từ ống dẫn và đủ thứ máy móc khác, có phẩm giá thực sự của con người hay không?

Chết với phẩm cách là yếu tố cần thiết và là trách nhiệm của mỗi chúng sanh? Phẩm giá của một đời người là tự mình có và có cho mình, một chân lý phải được người bệnh nhân tôn trọng, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Muốn theo quan niệm chết với phẩm cách thì quan hệ bác sĩ-bệnh nhân phải trong sự kính trọng lẫn nhau. Tuy nhiên ngày nay thật khó mà định nghĩa phẩm giá này khi mà mối quan hệ giữa bịnh nhân và bác sĩ bị kỹ thuật tân tiến đã qua mặt luân lý của nghành y học. Đây là việc bức thiết mà chúng ta cần xem xét mọi vấn đề về cái chết có phẩm giá của con người khi mà mạng sống của họ chỉ được duy trì bằng phương tiện nhân tạo.

Ông cố vấn của tôi Josei Toda đã chết với phẩm cách. Trên giường bệnh ông sách tấn người khác và trả lời câu hỏi về đạo Phật. Cho đến hơi thở cuối cùng, ông vẫn ban lời khuyên nhắc cho người đang lo buồn. Suốt cuộc đời, ông luôn lộ ra khỏe mạnh thực sự, ngay cả sau khi ông lâm bệnh. Khỏe mạnh chân chánh không có nghĩa là không bệnh. Hơn nữa, đó là một thái độ sống cởi mở, hài hòa với tâm ý của người khác và ngoại cảnh. Đây là sự thuần thục để ứng dụng khả năng sáng tạo hầu phục vụ xã hội.

SANH VÀ TỬ KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC TRONG CHỖ VĨNH HẰNG

Đức Thích-ca Mâu-ni xem cái chết của mình như phương tiện kết thúc cuộc sống, và giúp mục đích chính của ngài là cứu độ tất cả chúng sanh. Vì thế Phật bảo, Phật không muốn lưu lại trên thế gian mãi mãi mà có lúc đến và đi. Do đó ngài thúc bách chúng sanh thay vì truy tìm bi, trí và ơn huệ của Phật trong kinh điển, nên dựa vào đức tính chính mình tinh tấn.

Cái chết của mỗi người, cũng vậy, là phương tiện để kết thúc – có nghĩa phương tiện để tái sinh. Về già, chúng ta yếu và bệnh và đương nhiên phải chết. Nhưng chết không phải vô ích; chúng ta chết để bắt đầu một đời sống mới. Mục đích cơ bản của cái chết là để sống – Sự tái sinh này cho phép chúng ta bắt đầu giai đoạn tươi mới kế tiếp trong chu kỳ sống bất diệt.

Một ngày của chúng ta bắt đầu thức dậy khỏe khoắn. Và đến đêm chúng ta nằm xuống với thân mỏi mệt xứng đáng được nghỉ ngơi. Giấc ngủ làm chúng ta tỉnh táo trở lại và hồi phục năng lượng cho ngày hôm sau. Cũng như thế, nhìn trong dòng đời bất tận ta có thể xem chết là bước đầu vào một ngày sống mới.

Nếu thật sự nhận thức sống và chết như là sự việc sẵn có trong dòng đời bất tận, chúng ta sẽ tỉnh giác từ mê lầm. Nói cách khác, chúng ta chuyển dịch từ cái nhìn phiến diện đến sự nhận hiểu thấu đáo rằng Phật tánh vốn luôn luôn có nơi mình trong vòng luân hồi sanh tử, chớ không ở ngoài. Dựa trên sự hiểu biết này, chúng ta sẽ không còn sợ khổ vì sanh tử. Ngược lại, chúng ta có thể tích lũy biết bao tài sản giá trị vô biên, miên viễn và an lạc – nhờ đó chúng ta có thể tái lập chu kỳ sống và chết tốt hơn.

Thiên nhiên, xã hội, việc đời của chính mình – ba sự việc này rõ ràng ở trong một dòng bất biến liên tục, không bao giờ ở nguyên một trạng thái và tái lập liên tiếp chu kỳ sanh và diệt. Khi chúng ta nhận thấy đời sống của một cá nhân cộng tồn với vũ trụ và sanh với tử luân phiên thay đổi trong cái sống thường hằng, chúng ta bắt đầu hiểu ra rằng đời sống của chính mình và của những người chung quanh ta, cũng như của cả vũ trụ, là một tổng thể.

Chúng ta khám phá ngay trong chúng ta một “cái ngã” không bị tạp nhiễm bởi những thực trạng biến thiên của đời người và của xã hội, và sự khám phá này cho phép chúng ta vượt qua nỗi sợ chết. Khi chứng ngộ được trạng thái này thì không có điều gì tuyệt diệu hơn.

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *