
Kinh Đại Bi
✍️ Mục lục: Kinh Đại Bi
GIẢNG GIẢI KINH (TIẾP – 3)
Kinh Văn:
Âm: “NHƯỢC HỮU TỲ KHEO, TỲ KHEO NI, ƯU BÀ TẮC, ƯU BÀ DI, ÐỒNG NAM, ÐỒNG NỮ, DỤC TỤNG TRÌ GIẢ, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI TỪ BI TÂM, TIÊN ÐƯƠNG TÙNG NGÃ PHÁT NHƯ THỊ NGUYỆN: …”
Nghĩa: “Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn trì tụng, thì nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy …”
Lược Giảng:
“Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn trì tụng …” Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Giả sử có các Thầy hoặc các Sư cô, đã xuất gia, người nam hoặc người nữ còn tại gia, và đồng nam hoặc đồng nữ nào phát tâm muốn trì tụng Chú Ðại Bi, thì nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy …” Trước hết, vị phát tâm ấy cần phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười lời thệ nguyện như sau …
Kinh Văn:
Âm:
1) “NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC TRI NHẤT THIẾT PHÁP;
2) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC TRÍ HUỆ NHÃN;
3) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG;
4) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC THIỆN PHƯƠNG TIỆN;
5) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC THỪA BÁT-NHÃ THUYỀN;
6) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC VIỆT KHỔ HẢI;
7) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐẮC GIỚI ÐỊNH ÐẠO;
8) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐĂNG NIẾT-BÀN SƠN;
9) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC HỘI VÔ-VI XÁ;
10) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐỒNG PHÁP TÁNH THÂN.
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐAO SƠN, ÐAO SƠN TỰ TỒI CHIẾT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG HỎA THANG, HỎA THANG TỰ KHÔ KIỆT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐỊA NGỤC, ÐỊA NGỤC TỰ TIÊU DIỆT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG NGẠ QUỶ, NGẠ QUỶ TỰ BÃO MÃN;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG TU-LA, ÁC TÂM TỰ ÐIỀU PHỤC;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG SÚC SANH, TỰ ÐẮC ÐẠI TRÍ HUỆ.”
Nghĩa:
1) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;
2) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhãn;
3) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;
4) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;
5) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhã;
6) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;
7) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Ðịnh Ðạo;
8) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;
9) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;
10) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.
Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;
Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;
Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;
Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ.”
Lược Giảng:
Mười lời nguyện đó là:
1) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp.”
“Nam mô” nghĩa là gì? “Nam mô” là tiếng Phạn, và có nghĩa là “quy mạng.” Do đó, “Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát” có nghĩa là giao phó tất cả thân tâm, tính mạng của mình cho Quán Thế Âm Bồ-tát.
“Nam mô” lại cũng có nghĩa là “kính đầu,” tức là cung kính quy y, cung kính quay về nương tựa. Như vậy, “nam mô Phật” tức là cung kính quay về nương tựa Phật; “nam mô Pháp” là cung kính quay về nương tựa Pháp; “nam mô Tăng” là cung kính quay về nương tựa Tăng; và “nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm” là cung kính quay về nương tựa Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát đại từ đại bi.
Sau khi đã quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát rồi thì sao nữa? Thì hãy phát nguyện rằng: “Con nguyện chóng biết tất cả pháp. Cầu xin Quán Thế Âm Bồ-tát gia bị, phù hộ cho con được hiểu rõ Phật Pháp một cách nhanh chóng.” Ở đây, “biết” (tri) tức là hiểu rõ, hiểu thấu đáo.
2) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhãn.” Ở thế gian chúng ta, những người hiện đời có được Ngũ Nhãn, Lục Thông đều là nhờ thuở trước họ đã từng trì tụng Chú Ðại Bi và quy y với Quán Thế Âm Bồ-tát, nên Trí Huệ Nhãn khai mở và họ có được “con mắt trí huệ.”
3) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh.” Chúng ta cần “mau biết tất cả pháp, sớm được Trí Huệ Nhãn” để làm gì? Chính là để “chóng độ các chúng sanh.”
4) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện.” Muốn độ tất cả chúng sanh thì chúng ta cần phải biết mọi pháp môn phương tiện ngõ hầu có thể tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết giảng thứ giáo pháp thích hợp, “tùy bệnh cho thuốc.” Do đó, sớm chứng đắc các pháp môn thiện xảo phương tiện là điều rất thiết yếu.
5) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhã. Con lại quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ chóng được ngồi thuyền trí huệ Bát-nhã.”
6) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ. Sau khi được lên ngồi trên thuyền trí huệ Bát-nhã rồi, con nguyện sẽ dùng con thuyền này để nhanh chóng vượt thoát biển khổ sanh tử.”
7) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng được Giới Ðịnh Ðạo. Con cung kính quy y Ðức Quán Thế Âm Ðại Từ Ðại Bi, và nguyện sẽ sớm thông đạt được đạo Giới, Ðịnh, Huệ.”
8) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn. Sau khi đắc được Giới Ðịnh Ðạo, con nguyện sẽ mau chóng lên được cõi Niết-bàn.”
9) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi.” “Nhà Vô-vi” tức là Vô-vi pháp; do đó, “chóng về nhà Vô-vi” có nghĩa là sớm chứng đắc pháp môn Vô-vi vậy.
10) “Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh. Con xin cung kính quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ sớm chứng đắc tự thân của Pháp tánh.”
“Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ. Khi niệm Chú Ðại Bi, nếu con quay về hướng núi đao mà niệm, thì núi đao sẽ tự nhiên tan rã, đổ sụp xuống.”
“Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn. Nếu con hướng về địa ngục nước sôi mà niệm Chú Ðại Bi, thì lửa sẽ lụn tắt và nước cũng cạn khô.”
“Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu con hướng về địa ngục mà niệm Chú Ðại Bi, thì địa ngục sẽ biến thành thiên đường—không còn có địa ngục nữa.”
“Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ. Nếu con hướng về loài ngạ quỷ mà niệm Chú Ðại Bi, thì hết thảy ngạ quỷ đều được no đủ, không còn bị cái khổ đói khát hành hạ nữa.”
“Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu con hướng về những chúng sanh Tu-la hung ác nhất mà niệm Chú Ðại Bi, thì tâm địa độc ác của loài Tu-la sẽ tự nhiên được điều phục và tất cả đều phát tâm muốn quy y, hướng thiện.”
“Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ. Nếu con hướng về những súc sanh ngu muội mà niệm Chú Ðại Bi, thì chúng sẽ có được trí huệ rộng lớn.”
Kinh Văn:
Âm: “PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, CHÍ TÂM XƯNG NIỆM NGÃ CHI DANH TỰ, DIỆC ƯNG CHUYÊN NIỆM NGÃ BỔN SƯ A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI; NHIÊN HẬU TỨC ÐƯƠNG TỤNG THỬ ÐÀ-LA-NI THẦN CHÚ. NHẤT TÚC TỤNG MÃN NGŨ BIẾN, TRỪ DIỆT THÂN TRUNG BÁCH THIÊN VẠN ỨC KIẾP SANH TỬ TRỌNG TỘI.”
Nghĩa: “Phát những nguyện này xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con là Ðức A-Di-Ðà Như Lai; sau đó phải luôn trì tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.”
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật: “Sau khi các chúng sanh phát tâm thọ trì Chú Ðại Bi đã phát những nguyện này xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con–Quán Thế Âm Bồ-tát.”
Quý vị muốn thọ trì Chú Ðại Bi, thì trước tiên, mỗi người phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. “Chí tâm” tức là thành tâm thành ý, một lòng một dạ.
“Và cũng phải chuyên niệm Ðức Bổn Sư của con. Các chúng sanh đó nếu chỉ niệm danh hiệu của con thôi thì vẫn còn chưa đủ, họ cần phải chuyên tâm trì niệm cả danh hiệu của Bổn Sư của con nữa; Bổn Sư của con là ai ư? Chính là Ðức A-Di-Ðà Như Lai.” Bởi “uống nước nhớ nguồn,” cho nên chúng ta cần phải biết nghĩ đến Ðức Phật A-Di-Ðà, vốn là Thầy của Quán Thế Âm Bồ-tát tự thuở ban sơ. Do đó, chúng ta cũng cần phải niệm “Nam mô A-Di-Ðà Phật” nữa, chứ không phải chỉ niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát” mà thôi.
“Sau đó, phải luôn trì tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con—‘Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát’; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con—‘Nam mô A Di Ðà Phật’; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Ðà-La-Ni. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.”
Mỗi tối, nếu quý vị có thể chuyên cần trì tụng Chú Ðại Bi đủ năm biến, đều đặn như thế, thì có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân quý vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. “Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử” tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đã tạo tác trong quá trình luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập lại mãi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.
Kinh Văn:
Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TRÌ ÐẠI BI CHƯƠNG CÚ GIẢ, LÂM MẠNG CHUNG THỜI, THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT GIAI LAI THỌ THỦ; DỤC SANH HÀ ÐẲNG PHẬT ÐỘ, TÙY NGUYỆN GIAI ÐẮC VÃNG SANH.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng trì Thần Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn; và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện vãng sanh.”
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng trì Thần Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn.” Giả sử các chúng sanh trong cõi người và cõi trời tụng trì Chú Ðại Bi này thì đến lúc hấp hối, họ sẽ được chư Phật từ khắp mười phương hiện đến và đưa tay tiếp dẫn, đích thân nắm tay họ mà dắt về cõi nước của các ngài.
“Và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện vãng sanh.” Lại nữa, các chúng sanh này muốn sanh về cõi Phật nào thì đều được vãng sanh về cõi Phật đó, đúng như ước nguyện của họ.
Kinh Văn:
Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ, ÐỌA TAM ÁC ÐẠO GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT SANH CHƯ PHẬT QUỐC GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT ÐẮC VÔ LƯỢNG TAM-MUỘI BIỆN TÀI GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.”
Nghĩa: Lại bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị đọa vào ba ác đạo, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các cõi nước của chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.”
Lược Giảng:
Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị đọa vào ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.” Như vậy, nếu tất cả những chúng sanh tụng trì Chú Ðại Bi đều không còn bị đọa vào ba đường ác, thì Quán Thế Âm Bồ-tát mới thành Phật!
“Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các cõi nước của chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.” Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi và phát nguyện muốn được sanh về quốc độ của đức Phật nào đó, nếu người ấy không được toại nguyện thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ không thành Phật!
“Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.” Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi mà lại chẳng chứng được vô lượng Tam-muội cùng đại biện tài—không có được khả năng biện luận và giảng kinh thuyết pháp, cũng chẳng được khai mở đại trí huệ—thì Quán Thế Âm Bồ-tát cũng sẽ không thành Phật.
Kinh Văn:
Âm: “TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, Ư HIỆN TẠI SANH TRUNG, NHẤT THIẾT SỞ CẦU NHƯỢC BẤT QUẢ TOẠI GIẢ, BẤT ÐẮC VI ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI DÃ; DUY TRỪ BẤT THIỆN, TRỪ BẤT CHÍ THÀNH.”
Nghĩa: “Tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ý, thì không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành.”
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật rằng: “Những người tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ý, không được mãn nguyện, thì Thần Chú này không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni!” Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần phải lưu ý trước, đó là các trường hợp ngoại le?#151;”chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành.”
“Chỉ trừ bất thiện.” Nếu quý vị một mặt thì tụng Chú Ðại Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say sưa…, chẳng từ một việc xấu nào cả, thì hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển linh, không công hiệu. “Bất thiện” là bao gồm hết thảy mọi hành vi bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ…
“Trừ chẳng chí thành.” Nếu quý vị tụng niệm qua loa cho có lệ, nói là muốn thử xem Chú Ðại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế có nghĩa là quý vị không có lòng thành. Quý vị không có ý muốn thử, thì Chú sẽ linh ứng; song nếu quý vị muốn thử, thì Chú sẽ chẳng hiển linh! Vì sao ư? Vì Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quý vị tùy tiện thử thách, thí nghiệm—các ngài không cần quý vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do đó, nếu quý vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quý vị không có lòng chí thành; mà không có lòng thành khẩn thiết tha thì chẳng thể nào có sự cảm ứng linh nghiệm được!
Kinh Văn:
Âm: “NHƯỢC CHƯ NỮ NHÂN YẾM TIỆN NỮ THÂN, DỤC THÀNH NAM TỬ THÂN, TỤNG TRÌ ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI CHƯƠNG CÚ, NHƯỢC BẤT CHUYỂN NỮ THÂN THÀNH NAM TỬ THÂN GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC; SANH THIỂU NGHI TÂM GIẢ, TẤT BẤT QUẢ TOẠI DÃ.”
Nghĩa: “Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh Giác; người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện.”
Lược Giảng:
“Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, không muốn phải sanh làm người nữ nữa, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh Giác.” Sự “chuyển thân nữ thành thân nam” này không phải là sẽ xảy ra ngay trong đời hiện tại, mà là ứng vào đời sau trong thời vị lai.
Vậy, giả sử những người nữ ao ước được làm người nam đó siêng năng trì niệm Chú Ðại Bi, mà đến đời sau họ lại không được sanh làm thân nam, thì Quán Thế Âm Bồ-tát quyết sẽ không thành Phật.
“Người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện.” Tuy nhiên, nếu trong lòng quý vị có dấy lên dù chỉ một mảy may hoài nghi thì sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm nguyện của quý vị sẽ không được thành tựu.
Kinh Văn:
Âm: “NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH XÂM TỔN THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, THIÊN PHẬT XUẤT THẾ BẤT THÔNG SÁM HỐI, TÚNG SÁM DIỆC BẤT TRỪ DIỆT, KIM TỤNG ÐẠI BI THẦN CHÚ, TỨC ÐẮC TRỪ DIỆT.”
Nghĩa: “Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì dẫu một ngàn đức Phật ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay tụng Thần Chú Ðại Bi thì tức khắc được tiêu trừ.”
Lược Giảng:
“Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ.” Thường Trụ tức là nhà chùa.
Những kẻ đến chùa ăn uống, tiêu thụ vật thực của chùa mà không cúng dường tiền lại, hoặc mượn đồ dùng của chùa rồi không chịu trả, lạm dụng tài vật của chùa… thì sẽ mang tội rất nặng. Tội ấy, “thì dẫu một ngàn đức Phật ra đời, cũng chẳng được sám hối. Chư Phật không thể hứa khả cho họ sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được.”
Cái tội xâm chiếm hoặc làm hao tổn thực phẩm và tài vật của chùa chiền rất nghiêm trọng, cho dù các chúng sanh đó có đối trước chư Phật mà khẩn cầu sám hối thì tội lỗi cũng chẳng thể tiêu tan. Thế nhưng, “nay tụng Thần Chú Ðại Bi, thì tức khắc được tiêu trừ.” Nếu ngay bây giờ họ trì tụng Chú Ðại Bi, thì bao nhiêu tội chướng sẽ lập tức tiêu tan!
Kinh Văn:
Âm: “NHƯỢC XÂM TỔN THỰC DỤNG THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, YẾU ÐỐI THẬP PHƯƠNG SƯ SÁM TẠ, NHIÊN THỦY TRỪ DIỆT; KIM TỤNG ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI THỜI, THẬP PHƯƠNG SƯ TỨC LAI VI TÁC CHỨNG MINH, NHẤT THIẾT TỘI CHƯỚNG, TẤT GIAI TIÊU DIỆT.”
Nghĩa: “Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni thì mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan.”
Lược Giảng:
“Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ.” Những kẻ dám chiếm đoạt hoặc gây tổn thất hư hại cho tài sản, đồ ăn thức uống của nhà chùa, thì phải đối trước chư Ðại Sư ở khắp mười phương—cũng chính là mười phương chư Phật—để sám hối tạ tội thì may ra nghiệp tội tày trời của họ mới có thể được tiêu tan.
Tuy nhiên, những kẻ đó nếu “nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni thì mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan.” Chỉ cần ngay bây giờ những kẻ ấy bắt đầu thành khẩn tụng trì Chú Ðại Bi, thì mười phương chư Phật sẽ đến để chứng giám cho họ, và mọi tội lỗi nghiệp chướng của họ liền được tiêu tan.
Kinh Văn:
Âm: “NHẤT THIẾT THẬP ÁC, NGŨ NGHỊCH, BÁNG NHÂN BÁNG PHÁP, PHÁ TRAI PHÁ GIỚI, PHÁ THÁP HOẠI TỰ, THÂU TĂNG KỲ VẬT, Ô TỊNH PHẠM HẠNH; NHƯ THỊ ÐẲNG NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI, TẤT GIAI DIỆT TẬN.”
Nghĩa: “Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch.”
Lược Giảng:
“Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch …”
Thập Ác tức là mười việc ác: 1) Sát sanh; 2) Trộm cắp ; 3) Tà dâm; 4) Tham lam; 5) Sân hận; 6) Si mê; 7) Nói lời thêu dệt; 8) Nói lời gian dối; 9) Nói lời hung ác; 10) Nói lời đâm thọc (nói lưỡi đôi chiều).
Ngũ Nghịch là năm tội nghịch tày trời: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết bậc A-La-Hán; 4) Phá sự hòa hợp của Tăng chúng; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.
“Báng nhân, báng Pháp.” “Báng nhân” tức là hủy báng, chê bai, bôi nhọ người khác. Thí dụ, người ta vốn là một vị tu hành, có đạo đức, mà mình lại buông lời miệt thị: “Ui chao! Hắn là một kẻ chẳng ra gì, đừng nhắc tới nữa!”; như thế là hủy báng tha nhân vậy.
“Báng Pháp” tức là hủy báng Phật Pháp, hủy báng chư Tăng Ni, khinh chê lời Phật dạy.
“Phá trai, phá Giới.” Nếu quý vị đã nguyện là chỉ ăn chay, song lại không giữ lời, tùy tiện ăn thịt; như thế tức là quý vị “phá trai” vậy. Nếu quý vị thọ Giới mà lại không giữ Giới, cứ làm những điều trái với Giới Luật, thì đó gọi là “phá Giới.”
“Phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh.” “Phá chùa hủy tháp” tức là phá hoại, triệt hạ chùa chiền và tháp miếu thờ Phật; “trộm của Tăng-kỳ” là lấy cắp đồ đạc của người xuất gia; “làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh” là khiến cho người đang tu hạnh thanh tịnh bị ô uế, không giữ được hạnh trong sạch nữa.
Những tội lỗi kể trên đều rất nghiêm trọng, tuy thế, nếu quý vị đã trót phạm mà nay lại có thể thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì “bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch.”
Kinh Văn:
Âm: “DUY TRỪ NHẤT SỰ, Ư CHÚ SANH NGHI GIẢ, NÃI CHÍ TIỂU TỘI KHINH NGHIỆP, DIỆC BẤT ÐẮC DIỆT, HÀ HUỐNG TRỌNG TỘI? TUY BẤT TỨC DIỆT TRỌNG TỘI, DO NĂNG VIỄN TÁC BỒ ÐỀ CHI NHÂN.”
Nghĩa: “Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề.”
Lược Giảng:
Tuy nhiên, “chỉ trừ một việc.” Câu này vô cùng quan trọng; vậy thì ngoại trừ trường hợp nào? Ðó là trường hợp “nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi.”
Nếu quý vị cứ phân vân: “Không biết Chú này có linh nghiệm như thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng trì tụng Chú này thì được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ mình vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay không?”; tức là quý vị không có lòng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quý vị không tin thì thế nào? Thì sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! Vì sao ư? Bởi vì quý vị không đặt trọn lòng tin nơi Thần Chú!
Thí dụ, khi quý vị nhờ bạn bè làm giùm một việc gì đó, thì quý vị cần phải thật tâm tín nhiệm họ; bằng không, họ sẽ chẳng muốn giúp quý vị! Tương tự như thế, quý vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Thần Chú này; bằng không, “thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ.”
“Ðối với Thần Chú còn sanh lòng nghi” cũng có nghĩa là không “y giáo phụng hành,” không làm đúng theo các đạo lý bao hàm trong Thần Chú. Thí dụ Quán Thế Âm Bồ-tát căn dặn là hành giả mỗi ngày phải tụng Chú Ðại Bi đủ năm biến, thì quý vị không tụng năm biến mà lại tụng bốn biến, còn nói rằng: “Bớt đi một biến thì đâu có gì quan trọng?! Tụng nhiều hay ít thì cũng vậy thôi; miễn có tụng là được rồi!” Thế là, hôm nay lười biếng nên chỉ tụng một biến rồi nghỉ; hôm sau siêng năng hơn nên tụng luôn một lúc đến một trăm biến để bù lại! Như vậy thì có khác gì hôm nay ăn một lúc hết hai mươi chén cơm, rồi sang ngày mai thì không ăn gì cả? Không ăn gì cả thì đói chịu không nổi; còn ăn luôn hai chục chén cơm thì bụng no anh ách cũng chẳng dễ chịu tí nào! Việc tụng Chú Ðại Bi tuy về hình tướng thì không hoàn toàn giống như việc ăn cơm, song tính cách thì cũng tương tự. Trong kinh đã dặn mỗi ngày tụng năm biến thì chúng ta phải mỗi ngày chăm chỉ tụng đủ năm biến; nhất định phải đều đặn như thế, chứ đừng tụng sáu biến, mà cũng chớ nên tụng bốn biến!
Có người phân trần: “Tôi vốn kém trí nhớ, nên cứ lẫn lộn, không biết là mình đã tụng đủ năm biến hay chỉ mới tụng bốn biến!” Nói như thế tức là quý vị hoàn toàn chẳng có tụng niệm gì cả! Bởi quý vị không thể nhớ được kia mà! Tụng được bao nhiêu biến mà chính mình cũng không nhớ rõ, thì một biến cũng chẳng thành lập! Do đó, quý vị cần phải ghi nhớ cho rõ ràng rành mạch.
Lại có người thắc mắc: “Tôi vừa bắt đầu niệm Chú thì đầu óc cứ mơ mơ màng màng; như thế có kể là có tụng không?” Như thế thì không kể; đó là ngủ gà ngủ gật chứ không phải là tụng Chú!
Có người thì kể lể: “Mỗi lần tôi tu Pháp là hai mắt cứ ríu lại, mở không ra!” Như thế cũng không tính, bởi quý vị chỉ tu niệm một cách hồ đồ, điên đảo, thiếu sáng suốt. Quý vị cần phải y theo giáo pháp mà tu tập trong sự tỉnh táo, minh mẫn mới được!
Cũng có người tự biện hộ rằng: “Tôi chỉ phạm một vài sai sót nho nhỏ thôi thì chắc cũng không sao; vị Thần của Chú không thể nào biết được! Hiện tại tôi chưa tụng Chú, thì vị Chú Thần chưa đến, vậy tôi có uống chút xíu rượu cũng chẳng hề gì!” Suy nghĩ như thế tức là quý vị “còn sanh lòng nghi,” không có tín tâm đối với Chú. Phải như thế nào mới gọi là thật sự có tín tâm đối với Chú? Phải thành khẩn, không mảy may gợn chút hoài nghi, và phải theo đúng khuôn phép, nền nếp mà tu hành!
“Huống hồ tội nặng?” Tội nhỏ nghiệp nhẹ mà còn không tiêu trừ được, thì tội lớn nghiệp nặng lại càng khó thể tiêu trừ hơn nữa!
“Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về lâu xa.” Mặc dù quý vị tụng Chú với lòng nghi thì tội nặng không thể được tiêu trừ ngay, song quý vị vẫn có thể gieo được cái nhân Bồ-đề cho chính mình về sau. Hạt giống Bồ-đề này, đến một đại kiếp nào đó trong tương lai sẽ nẩy mầm Bồ-đề và sẽ lớn mạnh, kết thành quả Bồ-đề. Cho nên, một khi đã trồng cái nhân rồi, thì sớm muộn gì nó cũng đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet
✍️ Mục lục: Kinh Đại Bi 👉 Xem tiếp