Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Chương Hai: Cấu Trúc của Tâm
TÂM THỨC BỀ MẶT VÀ TIỀM THỨC
Có nhiều thứ vây quanh cuộc sống chúng ta. Khi bực mình, ta muốn dời về nơi núi rừng để có được một cuộc sống lặng lẽ và bình dị, nhưng sự thật là chính con người chúng ta bị nhiều thứ vây quanh lại chẳng hề thay đổi. Chừng nào còn sống, chúng ta không thể nào tách ra khỏi ngoại cảnh chung quanh. Trong đời sống, chúng ta không có lựa chọn nào khác hơn là giữ mối liên lạc với những gì quanh ta. Lúc đó luôn luôn có nào vật, nào người, nào sự cố. Thay vì tìm cách chạy trốn, điều cần làm là quán sát kiểu chúng ta nhận thức những sự vật, và cách chúng ta hiểu nội dung trong đó.
Trong Duy Thức Phật Giáo, bản chất của chức năng nhận biết và đối tượng nhận biết được chú trọng đặc biệt. Sau khi nghiên cứu, các nhà Duy Thức đi đến kết luận là, tuy rằng như là một vấn đề quy ước, chúng ta nhận biết sự vật của thế giới ngoại tại như là chúng ta trực tiếp hiểu được chúng, và tuy càng nghĩ rằng chúng ta hiểu đúng ý nghĩa của chúng dựa trên căn bản của sự hiểu biết trực tiếp, những sự vật đó thật ra không hiện hữu như thế.
Đúng ra, các nhà Duy Thức nói rằng những đối tượng được nhận biết thật sự đã bị tâm chúng ta biến hiện, và sau đó phản chiếu lại trên tâm những hình ảnh tương tự những đối tượng đó.
Khi một hình ảnh giống một vật được gợi lên qua sự biến thể và hiện lên trong tâm, đương nhiên là vài khía cạnh đặc biệt của hình ảnh đủ sức truyền tin để chúng ta nhận diện được. Tuy nhiên, chúng ta có lý do chính đáng để nghi ngờ tầm mức thể hiện thật sự phản ánh sự tướng sự vật như đang là. Tuy điều nghi ngờ này rất hợp lý, chúng ta vẫn sống và nghĩ rằng mình thấy, nghe, xét đoán, và hiểu biết những sự vật tác động lên sự tỉnh thức của mình.
Vì không ai trong chúng ta cố tình muốn thay đổi hình tướng của sự vật, muốn làm méo mó hình nét hoặc sửa đổi dáng vẻ, chúng ta sống một cách vô ý thức, tin rằng chúng ta nhận biết mọi thứ một cách chính xác. Ngụ ý quan trọng đi đôi với nhận xét này là trong đời sống hằng ngày, không phải chúng ta chỉ sống trong phạm vi tâm thức. Những lĩnh vực của tâm có thể suy xét và điều chỉnh trong Phật Giáo gồm sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức suy nghĩ. Tuy nhiên, chỉ riêng sáu thức không thể giải thích hết phạm trù rộng lớn của tư tưởng và sinh hoạt của chúng ta. Thí dụ như đứng trước cùng một ngọn núi, một người leo núi kinh nghiệm và một người tập sự, cả hai nhìn dáng dấp ngọn núi với sự hiểu biết cách nhau một trời một vực. Ý thức suy nghĩ bình thường của chúng ta đã tích lũy kinh nghiệm nhiều năm, vì thế thiếu khả năng dung chứa trọn vẹn.
Đối với nhận xét này, hành giả Duy Thức suy xét kỹ càng sự hình thành và chức năng của tâm thức, tin rằng phải có một tầng lớp tâm sâu xa hơn luôn luôn gây ảnh hưởng lên ý thức hằng ngày và đồng thời làm tầng lớp nền của tâm. Như thế, các vị ấy thừa nhận một vùng tiềm thức của tâm gồm hai lớp tâm thức là Mạt-na và A-lại-da thức.
Thói quen liệt kê những khả năng chính của tâm thức đã có từ thời kỳ Phật Giáo nguyên thủy ở Ấn độ, và vẫn tiếp tục tồn tại như một tiêu chuẩn căn bản trong Phật Giáo tiểu thừa được giảng dạy trong những bản văn như A-tỳ-đạt-ma câu-xá luận. Duy Thức Phật Giáo vào thời kỳ đầu tiên chấp nhận hệ thống này làm điểm khởi đầu, nhưng dần dần những nhà tư tưởng bắt đầu phát triển mô hình khác biệt riêng, và đi tới kết luận rằng sáu thức không thể giải thích toàn thể tâm mà chỉ là điển hình bề mặt của tâm.
Trong sáu thức này, năm thức nhãn-nhĩ-tỷ-thiệtthân thức, mỗi thức hoạt động đặc biệt ứng với màu sắc và hình dáng, tiếng động, mùi, vị, và những vật sờ mó được. Cả năm thức tương ứng với thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc chạm – nói một cách khác, mỗi hoạt động xảy ra của năm giác quan đều tương ứng với mỗi giác quan. Năm thức này có chung một nét đặc trưng là chỉ có thể nhận ra đối tượng hiện hữu như đang là.
Thí dụ như trường hợp nhãn thức sinh ra vì có một bông hồng đỏ, vật thể tạo nên đối tượng của nhãn thức chỉ là sự nhận thức trực tiếp về một đối tượng màu đỏ với một hình dáng nhất định nào đó. Vào lúc này, đó là loại nhận thức không có trung gian, như ngôn ngữ, để gắn ý nghĩa vào. Ta gọi đó là nhận thức trực tiếp (hiện lượng). Ở giai đoạn này, không có lý giải rằng, “Đây là một đóa hoa màu đỏ tươi, và đây là đóa hoa sen.” Đối tượng của sự nhận thức lúc này là một vật như đang là, thuộc về thuần túy giác quan trong ba loại đối tượng được diễn tả ở chương một. Vì hoa sen có hương thơm lạ thường, đương nhiên tỷ thức phát sinh, tạo nên mùi hương chỉ riêng tỷ thức nhận được.
Sự nhận biết rằng “Đây là một đóa hoa màu đỏ tươi, đóa hoa này là hoa sen, và nó rất thơm” là điều xảy ra ở tầng thức kế đó, chức năng của ý thức suy nghĩ (mano-vijnana). Ý thức suy nghĩ, thức thứ sáu, giải thích chức năng hoạt động tâm lý về nhận thức, tình cảm, suy xét và ý muốn, từ bản chất tương đương với điều thường cho là “tâm” trong ngôn ngữ hằng ngày.
Diễn tả ý này bằng thành ngữ cận đại “máy chế biến tin tức,” cho ta biết rằng tin tức được thu thập là do năm thức nhận biết, qua năm giác quan. Phương pháp chế biến tin tức là vấn nạn của chức năng ý thức. Năm thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức tạo nên những chức năng nhận biết tương đối đơn giản. Vì những thức này hoạt động “trước” ý thức, và được xếp vào một nhóm tên là tiền ngũ thức.
Thức thứ sáu, ý thức suy nghĩ, hoạt động đồng thời với tiền ngũ thức. Thuần túy nhận diện đối tượng như đang là, và biết rằng “đây là đóa sen đỏ thắm, có hương thơm tuyệt vời” là chức năng của ý thức. Trong khi tiền ngũ thức bị hạn chế chỉ nhận thức đối tượng trước mắt như đang là thì thức thứ sáu, lúc hoạt động trong khuôn khổ hiện tại, vẫn có thể phản ảnh quá khứ cũng như tiên đoán tương lai.
Vì tiền ngũ thức nhận biết những đối tượng hiện tại như đang xảy ra qua năm giác quan, một sự gián đoạn tạm thời (chẳng hạn khi nhắm mắt) sẽ khiến chức năng nhận biết của thức đó bị đình chỉ. Trong khi sự nhận biết bởi tiền ngũ thức bị hạn chế vào một lúc nào đó thì hoạt động của ý thức liên quan đến đóa hoa đã thấy tới lúc đó vẫn còn có thể tiếp tục. Bởi vì khả năng duy trì sự liên tục như thế nên sau đó ta có thể phản hồi hình ảnh đóa sen nhiều lần trên những góc cạnh khác nhau, khiến ta tưởng tượng thoải mái. Ghi nhớ quá khứ, dự đoán tương lai, cưu mang vô số tính toán so sánh, và rồi góp nhặt và tổng hợp mọi thứ – tất cả việc trên là chức năng của ý thức.
Xét đến tiền ngũ thức và ý thức, chúng ta có thể dễ dàng nghĩ ra vô số điều khác biệt trên lĩnh vực chức năng hay ẩn ý khách quan mà chúng nhận biết. Tuy nhiên, vì tiền ngũ thức và thức thứ sáu chia xẻ một chức năng tổng quát chung của sự nhận biết và phân biệt nội dung đối tượng tương ứng, Duy Thức Phật Giáo xếp loại tiền ngũ thức và ý thức vào chung một loại là sáu thức nhận biết đối tượng. Tuy thế, đối với Duy Thức, tâm không phải chỉ là sáu thức này vì không đủ để diễn tả toàn bộ đời sống tinh thần của chúng ta.
A-LẠI-DA THỨC VÀ MẠT-NA
1. Những hạn chế của sáu thức
Khác với quan niệm về sáu thức trong thời kỳ đầu của Phật Giáo Ấn Độ, các nhà Duy Thức cho rằng tâm của chúng ta có tám thức. Tám thức này gồm có sáu thức phân biệt đối tượng cộng thêm Mạt-na (căn bản của thức) và A-lại-da thức (tàng thức).
Nếu chúng ta muốn tìm hiểu một cách chắc chắn khía cạnh con người hiện hữu thật sự, ở mức có thể hiểu được, bắt buộc phải có lớp tâm thức tiềm ẩn. Trong khi hoạt động như nền tảng hiện hữu, tiềm thức không ngừng chi phối đời sống tâm thức hằng ngày của chúng ta. Chính vì chứng minh và định nghĩa tiềm thức mà các nhà Duy Thức đã chọn đây là điểm trọng tâm trong việc nghiên cứu. Phần trên đã giải thích kinh nghiệm tích lũy lâu năm là một điều gì không thể xem như nằm trong chức năng của thức suy nghĩ (thứ sáu). Để trắc nghiệm việc này, hãy tạm hồi chiếu quá khứ.
Thức thứ sáu, mặc dù chức năng rộng lớn vượt qua các thức giác quan, nhưng nếu suy nghĩ kỹ trên bình diện bao trùm quá khứ, thức này lại trở thành nông cạn và hạn cuộc. Rõ ràng chúng ta đã quên nhiều việc đã làm trong đời mình. Tuy nhiên thử tưởng tượng nếu không lưu giữ một dấu vết nào trong những sự cố đã xảy ra thì sao? Nếu như thế, dù cố gắng làm bất cứ điều gì, chúng ta cũng không thể nào làm tốt hơn được. Nhưng rồi chúng ta lại biết rằng chỉ cần thực tập một chút, mình sẽ làm tốt hơn và khéo hơn.
Giờ đây chúng ta biết có một vùng tâm thức lưu giữ một cách chính xác những kinh nghiệm. Nhưng khi chúng ta ngủ say, ý thức sẽ ra sao? Vì ý thức có mặt cốt suy nghĩ, và suy nghĩ đã dừng nghỉ, như vậy thức này đã không còn nữa. Sự có mặt và vận hành của ý thức hoàn toàn bị gián đoạn. Ý niệm về sự gián đoạn rất quan trọng trong lý thuyết về tâm của Duy Thức.
Ý thức không phải là một thứ hoạt động liên tục mà có những lúc ngưng nghỉ. Điều này hiểu được dễ dàng theo thường tình, nhưng ở đây có vấn đề đặc biệt, vì không giống như những tôn giáo khác cho rằng có một linh hồn thường hằng, hay cái ngã làm nền tảng và giữ lại sự hiện hữu những lúc tâm thức không hoạt động. Một trong những nguyên lý căn bản của đạo Phật là bất cứ cái ngã nào như thế cũng chỉ là tưởng tượng thôi. Trường hợp này không có thứ gì liên kết những gián đoạn tâm thức với nhau, và ngay cả một cái ngã tạm thời như một thực thể thống nhất cũng không được thừa nhận. Đi tới kết luận này, họ [các nhà Duy thức] quyết định phải có một vùng tiềm tàng trong tâm không hề bị gián đoạn, lưu giữ chắc chắn những hậu quả việc đã làm. Duy Thức Phật Giáo thảo luận về sự hiện hữu một tâm thức như thế, và gọi là tàng thức.
2. A-lại-da thức và Mạt-na
Trong Duy Thức Học, tâm gọi là A-lại-da thức được cho là tâm căn bản nhất, vùng tâm thức giải thích sự liên tục kéo dài từ quá khứ đến tương lai.
Thực ra, có một “cái tôi” thay đổi trên cơ sở hằng ngày. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng “cái tôi” của ngày hôm qua thì hầu như cũng là “cái tôi” của ngày hôm nay, và không có sự thay đổi giữa “cái tôi” của năm ngoái và “cái tôi” ngày hôm nay. Đương nhiên là chúng ta cảm thấy như thế. Điều được gọi là ngã thayđổi-mà-không-thay-đổi là điều chúng ta cho là nền tảng của chúng ta, căn cứ trên đó sự ổn định đời sống được duy trì. Và nền tảng đó là A-lại-da thức.
Trong cơ cấu Phật Giáo, tuy nói cái ngã “thay đổi nhưng không thay đổi,” chúng ta không nói về thể tánh thường hằng, mà nói về sự vô thường cơ bản trong tự tính. Tuy vậy chúng ta đi đến chỗ nắm giữ tính liên tục của ngã và giải thích sai lạc đó là cái ngã không thay đổi, cụ thể hóa. Ngoài A-lại-da thức, chúng ta còn có một khía cạnh khác của tâm thực hiện chức năng “tạo ra cái tôi.”
Các nhà Duy Thức trước hết thừa nhận khía cạnh này của tâm, họ gọi là Mạt-na, rồi đề ra có một chức năng của tâm, bí mật và không ngừng tự gán ý niệm của một cái ngã có mặt liên tục, không bị ngắt quãng. Vì Mạt-na cũng dấn thân vào sự suy nghĩ sơ đẳng, nên có một vài chức năng chồng tréo lên ý thức.
Nhiệm vụ thu thập và quyết định cách xử lý tin tức là một trong những chức năng của ý thức đã được nói rõ rồi. Nhưng ý thức có khả năng tự chế biến và gia công thì không chắc lắm. Quan tâm đến vấn đề này, các nhà Duy Thức cho rằng ý thức có Mạt-na yểm trợ.
Chức năng “tạo-ra-cái-tôi” của Mạt-na cũng có ảnh hưởng hướng ra ngoài, vì Duy Thức Học Phật Giáo hiểu rằng dù cố gắng làm cho cái nhìn của mình đúng mức tới đâu, chúng ta không thể đi quá tầm phán đoán mà ta tin là đúng với hoàn cảnh mình. Đây là chứng cứ chức năng của Mạt-na không bị đứt đoạn và trùm khắp. Rồi Mạt-na bám vào A-lại-da thức xem như lớp nền của mình. Như thế trong Duy thức Học Phật Giáo, A-lại-da thức được coi là phần căn bản nhất của tâm.
3. Ba Sự Biến Hiện Thuộc Về Chủ Thể
Các nhà Duy Thức bắt đầu phỏng đoán cấu trúc của tâm gồm tám thức, phân bổ thành hai tầng thâm sâu là Mạt-na và A-lại-da thức, và sáu tầng bề mặt gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Như đã nhận thấy, tâm của chúng ta có chức năng thể hiện trong tâm đối tượng nhận biết như là “hình ảnh.” Trong khả năng rất quan trọng này, tâm không những chỉ được xem là tâm, mà còn là tâm thực thi biến hiện. Tâm là chủ thể biến hiện gồm ba tầng lớp.
Tâm tác nhân biến hiện đầu tiên là A-lại-da thức. A-lại-da thức lưu giữ tất cả những kinh nghiệm của chúng ta một cách không sai lạc, nhận diện và đặt để ngữ cảnh thích hợp cho sự vật khi nhận diện. Những kinh nghiệm của chúng ta, tùy theo chiều sâu và ý nghĩa trong đời sống, rất khó xóa bỏ.
Tác nhân biến hiện thứ hai là Mạt-na. Trong trường hợp này, đối tượng của sự nhận thức được biến hiện bởi một dính mắc sâu xa vào cái ngã, và do đó có khuynh hướng bảo vệ và tăng cường ngã chấp.
Sau đó, đã tùy thuộc vào ảnh hưởng tiềm ẩn, nên chức năng nhận biết của ý thức và năm thức giác quan bắt đầu phân biệt sự vật. Khi chú tâm vào thấy hay nghe, điều được thấy và được nghe đương nhiên khác nhau. Vì những thức này chỉ biết được đối tượng riêng của mình, những sự vật được biến hiện là những hình ảnh đối tượng riêng của mình. Như vậy, tất cả sáu thức nhận biết đối tượng cùng tạo thành tác nhân biến hiện thứ ba. Từ đó, ta có thể hiểu rằng biết được một sự vật đích thực như đang là thì khó khăn biết chừng nào.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet