Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

Chương Mười: Quãng Đường tới Phật Quả

PHÀM PHU NHẬN THẤY GÌ? CHƯ PHẬT NHẬN THẤY GÌ?

Con người, cùng với tất cả mọi thứ chung quanh, được sinh ra, chết đi và thay đổi từng mỗi phút giây. Không có riêng một thứ nào không thay đổi và có thực chất vững bền. Đức Phật đã chỉ dạy chúng ta như thế khi dẫn dắt chúng sinh vô minh đến bờ giác ngộ, và đó là giáo pháp Ngài đã ban cho chúng ta. Pháp Phật quả quyết rằng nếu ta có thể tiếp thu được hai điều kể trên, sẽ đạt được tâm hồn thanh thản ở mức độ đáng kể.

Để trình bày lại chân lý Đức Thích-ca chỉ dạy, tất cả mọi vật đều sinh ra căn cứ trên phạm vi rộng lớn của nhân và duyên. Mọi vật (các pháp), dù là hiện tượng tâm lý hay vật chất, xuất hiện vì những yếu tố khác nhau hòa hợp tạm thời với nhau tùy theo duyên. Vạn pháp không được thành lập lâu hơn chốc lát, nên không thể nào hiện hữu như những thực thể cố định, bất biến. Vì vậy, một khi sự kết hợp tạm thời tan rã, tất cả mọi hiện tượng biến mất ngay lập tức. Như thế vạn pháp đều ở trong tình trạng biến đổi liên tục.

Trong Duy thức, thể cách xảy ra như thế này được gọi là tính y tha khởi (paratantra-svabhava), nghĩa là các pháp chỉ hiện hữu vì có liên hệ với những pháp khác. Tất cả vạn pháp trên thế giới này hiện hữu qua tính y tha khởi. Vì thế tám thức và tất cả những tâm sở khác nhau của chúng ta đều hiện hữu theo như thế, và sự nhận thức quan trọng nhất là tự có tính y tha khởi này. Tuy nhiên, chúng ta chấp dính vào tất cả những đối tượng nhận thức, cho là có thực chất bền vững, và chấp chặt vào đó. Tâm sở này, xảy ra trong thức thứ sáuthứ bảy nơi ta hiểu tất cả các pháp hiện hữu một cách vững bền, được gọi là tính biến kế (sở) chấp.

Chúng ta nắm những pháp có tính y tha khởi bằng cách phủ lên một mạng lưới chấp dính. Vì hiểu vạn pháp thật sự đều ở trong trạng thái liên tục thay đổi nhưng có một dáng ngoài cố định, nên các pháp được phàm phu chúng ta nhận thức đều là nhận thức sai lạc. Cuộc đời đầy khổ đau của chúng ta được hình thành một cách cứng ngắc trên căn bản nhận thức sai lạc này, và một khi đã được thành hình thì khó thay đổi. Tất cả các pháp chỉ là sự kết hợp tạm thời của vô số nhân duyên, một quá trình đi từ trụ đến diệt và ở trong một trạng thái liên tục thay đổi. Để thực chứng đặc tính hiện hữu, ta phải đừng bị kẹt vào ý niệm cụ thể hóa đã thâm nhập vào vạn vật hiện hữu thực sự do duyên sinh.

Duy Thức Học Phật Giáo dạy rằng khi ta tách ra khỏi thói quen chấp dính lầm lẫn này, và quan sát một cách chính xác chính mình và các pháp chung quanh trên bình diện của tính y tha khởi, thể cách hiện hữu nguyên thủy của mỗi pháp sẽ xuất hiện một cách huy hoàng trước mắt chúng ta. Đây đích thực là nội dung nhận thức của Đức Phật, và sự nhận thức thanh tịnh này của lý duyên khởi được diễn tả bằng thuật ngữ viên thành thật (parinishpanna-svabhava).

Ba cách nhận thức này – biến kế chấp tính, y tha khởi tínhviên thành thật tính – là tam tính.

Một câu chuyện tương ứng mô tả tam tính đã được kể lại qua bao nhiêu thế kỷ. Một người đi trên đường vào ban đêm thấy một sợi dây thừng bỏ bên đường, và tưởng lầm đó là con rắn, và vì vậy anh ta sợ hãi. Tuy nhiên khi nhìn kỹ hơn, cẩn thận quan sát “con rắn,” thấy rõ đó chỉ là một sợi dây thừng. Dây thừng lại được nhận thấy là dây thừng. Xem xét kỹ hơn, người ấy nhận thấy thật sự không có một thực chất nào nơi sợi dây thừng, chỉ là một kết hợp từ vô số những sợi dây gai, và tạm đặt tên là sợi dây thừng.

Đây là mẩu chuyện tương đồng giữa con rắn, sợi dây thừng và dây gai. Việc nhận thức đó là những sợi gai tiêu biểu cho tính viên thành thật; việc nhận thức đó là sợi dây thừng kết hợp từ vô số sợi gai chỉ cho tính y tha khởi. Và sự hiểu lầm sợi dây là con rắn tượng trưng cho tính biến kế sở chấp. Lý thuyết về tam tính là một trong những lý thuyết quan trọng nhất trong Duy Thức Học Phật Giáo.

Ở đây, chúng ta chỉ mới được giới thiệu sơ qua về thuyết tam tính, nhưng hy vọng là con đường tiến xa hơn đã được mô tả đầy đủ. Định hướng của tam tính sẽ dẫn chúng ta tách ra khỏi sự nhận thức của phàm phu là biến kế chấp, và nỗ lực tiến tới sự nhận thức đúng theo quan điểm của Đức Phật là tính viên thành thật.

Con đường nào là đích thực có thể hướng dẫn từ mức độ của phàm phu đến mức độ của Phật? Điều gì đáng cho chúng ta quan tâm hơn việc này? Giờ đây chúng ta hãy xem xét vài cách giải thích về tánh và nội dung của con đường dẫn tới giải thoát.

ĐỐN GIÁO VÀ TIỆM GIÁO

Chúng ta hãy nhớ lại lời của Jokei: “Chỉ bằng sự vô minh của tôi, tôi biết tôi có tánh đại thừa vĩ đại.”

Qua tự quán chiếu sâu xa, Jokei nhận biết được sự vô minh của ông, đồng thời cũng nhận biết rõ ràng về việc đang tìm sự gia trì của Đức Phật một cách thành khẩn. Và tới một mức độ Ông giữ vững sự chú tâm hướng về giác ngộ, nỗ lực như là một hữu tình thiếu bản chất giải thoát, Ông cảm thấy rất rõ nơi Ông một năng lực liên hệ với tánh Phật và Bồ-tát.

Với những sự diễn biến trong tâm của một bậc thầy vĩ đại của Duy Thức, chúng ta thấy rằng chính khi nhận biết nỗi tuyệt vọng về sự vô minh của chúng ta, cảm nhận sâu đậm tình trạng mình là hữu tình thiếu bản chất thành Phật, đó là bước đầu tiên hướng tới Phật tánh. Nói cách khác, chính trong việc biết được sự vô minh của chính mình mà quyết định tìm giác ngộ được hình thành, không kể gì những trở ngại.

Và, có vẻ như là chúng ta có thể biết rằng quyết định này, một sự thúc đẩy của cái gọi là phát bồ-đề tâm, có nghĩa là ngay tại đây thấy được bước khởi đầu vững vàng hướng về cảnh giới Phật. Bằng cách trực diện với những cảm thọ thực sự trong thời kỳ đầu tu tập theo Phật, tự nhiên chúng ta có thể nỗ lực khiến việc giải thoát giống Phật thể hiện càng sớm càng tốt.

Tạm để qua một bên cảm nhận của chúng ta trên tiêu đề này, quan điểm của Phật giáo về tiến trình giải thoát thông thường có thể chia ra đốn giáotiệm giáo. Đốn giáo có nghĩa sự giải thoát tương đương với chư Phật có thể đạt được một cách nhanh chóng. Ý này được mô tả trong lời nói của những người ủng hộ chủ trương đốn như “thành tựu Phật quả trong thân này.” Mặt khác, tiệm giáo chủ trương rằng sự chấp ngãchấp pháp chặt cứng của chúng ta không thể cắt đứt ngay một lúc, và chỉ có thể trừ bỏ từ từ bằng nỗ lực kiên trì, vì vậy việc thành Phật đòi hỏi phải rèn luyện qua một thời gian thật lâu dài. Ở đây Duy Thức Học Phật Giáo giữ lập trường tiệm giáo.

Chắc chắn là nếu được chọn lựa giữa hai cách, đa số mọi người sẽ thích đốn giáo hơn. Tuy nhiên, trong chúng ta những người nghiêng về thành tựu Phật quả nhanh trước hết nên xem xét điểm này. Chỉ có thể đạt một tiến bộ nhanh nếu ta bắt đầu từ một căn bản vững chắc và tích lũy nỗ lực đúng đắn. Tiệm giáo đặt ưu tiên rõ ràng trên sự tích lũy những nỗ lực đúng đắn, tu tập lục độtứ nhiếp pháp, là theo con đường thành nhân. Trên sự tích lũy thiện pháp hằng ngày chân thật này, sự giác ngộ không thể nào không sinh khởi nơi chúng ta. Sự thành tựu Phật quả nhanh chóng có thể được xem như kết quả của sự tích lũy lâu dài và liên tục.

Thật ra giữ được lối sống theo Phật Giáo một cách toàn hảo trong đời thường không phải dễ. Nếu chúng ta quán chiếu cuộc sống chúng ta trong mục tiêu hướng về giác ngộ, có một điều làm chúng ta liên tục tiến về phía trước, và rồi lại thụt lui xa khỏi mục tiêu. Vào những lúc như thế, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa tiệm giáo là nhấn mạnh tích lũy chân thật những thiện pháp.

Trong một kinh bản có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển Duy Thức học nhan đề là Nhiếp Đại Thừa Luận do vị thầy vĩ đại của Duy Thức Học là ngài Vô Trước (thế kỷ thứ 5) viết là: “Mạnh hơn tất cả lời nguyện là thành đạt tu tập tinh tấn tối thượng.” Sự tinh tấn bao gồm việc trực diện mục tiêu của mình, đều đặn nỗ lực không xao lãng, tiến tới thành tựu không ngưng nghỉ dù bất cứ lý do gì. Tuy đây là một lối sống lý tưởng, nhưng không dễ gì thực hành. Một lối sống theo Phật giáo là một điều chỉ có thể thành tựu được qua sự tích lũy những nỗ lực của mình, mỗi ngày một ít.

THÀNH TỰU PHẬT QUẢ TRONG BA  A-TĂNG KỲ KIẾP VÀ NĂM GIAI ĐOẠN TU TẬP THEO DUY THỨC HỌC

Các nhà Duy Thức Phật giáo xem xét kỹ lưỡng tất cả những khía cạnh của tâm, và cố gắng làm sáng tỏ sự cấu tạo và vận hành thực sự. Từ quan điểm của các nhà Duy Thức, chắc chắn là cả hai việc chấp ngã chấp pháp không thể cắt bỏ dễ dàng. Đúng hơn là chỉ có thể loại bỏ từ từ trong một thời gian dài tu tập đều đặn. Tiến trình theo đó chúng ta đánh thức tâm và bước trên Bồtát đạo, và cuối cùng đạt được giải thoát viên mãn, chắc chắn cũng không ngắn, êm ái hoặc nhanh.

“Một thời gian dài tu tập đều đặn” đích xác là bao lâu? Bởi vì chúng ta, những phàm phu không ngừng nghĩ tới Phật quả, nhưng mặt khác, chúng ta hơi giải đãi, đây là điều chúng ta rất lo âu khắc khoải. Duy Thức Học thường diễn tả ý niệm một khoảng thời gian rất dài với cụm từ ba đại A-tăng-kỳ kiếp hay ba đại kiếp và một trăm kiếp. A-tăng-kỳ (asamkhya) là từ Sanskrit có nghĩa là “không thể tính được” hay “vô lượng” và kiếp (kalpas) là ý niệm của Ấn Độ chỉ một khoảng thời gian thật dài, tương đương với danh từ niên kỷ (eon) trong tiếng Anh. Thuật ngữ này ngụ ý rằng con đường đi tới Phật quả theo sự chỉ dạy của Duy Thức Học Phật Giáo là một điều dứt khoát không thể thành tựu trong một khoảng thời gian ngắn được, mà đúng hơn đòi hỏi một khoảng thời gian vô lượng để hoàn thành. Để hiểu được khoảng thời gian vô lượng này, hai ẩn dụ “bàn thạch kiếp” và “giới tử kiếp” đã được sử dụng từ thời xa xưa.

Trong ẩn dụ bàn thạch kiếp, chiếc áo nhẹ như lông của thiên nhân phất qua một tảng đá lớn rộng tám trăm dặm mỗi trăm năm một lần. Chiếc áo mỏng và nhẹ của thiên nhân giống như thứ vải mỏng để may áo cho phụ nữ. Thời gian cần thiết để cuối cùng làm mòn tảng đá bằng cách quét nhẹ với chiếc áo như thế cho chúng ta một ý niệm về một đại A-tăng-kỳ kiếp. Ba lần khoảng thời gian này thì được gọi là ba đại A-tăng-kỳ kiếp.

Trong ẩn dụ của giới tử kiếp, những hạt mù-tạt nhỏ li ti được rắc vào sân một tòa lâu đài rộng tám trăm dặm, cứ một trăm năm rắc một hạt. Thời gian cần để rắc đầy sân tòa lâu đài trong quá trình này gọi là giới tử kiếp hay mù-tạt kiếp. Dù là ẩn dụ của bàn thạch kiếp hay giới tử kiếp, điều muốn nói ở đây là không có việc gì mà không đòi hỏi một thời gian lâu dài và dường như vô tận. 

Nói một cách khác, điều các nhà Duy Thức truyền đạt là nếu không đào luyện tâm linh trong một thời gian dài không lường được, chúng ta không thể nào thoát ra khỏi trói buộc và đạt được giác ngộ. Vì thế, ngược lại với học thuyết đốn ngộ thành Phật, các vị này chủ trương thành tựu Phật quả trong vòng ba A-tăng-kỳ kiếp.

Cụm từ ba A-tăng-kỳ kiếp cộng thêm một trăm kiếp không có nghĩa là cần thêm một trăm kiếp cộng vào ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Một trăm kiếp đó được hiểu như là đã bao gồm trong ba A-tăng-kỳ kiếp rồi. Một vị chân Bồ-tát, tu tập lục độ và những thiện pháp khác đã gần thành tựu được Phật quả, hành thiện nghiệp và, trong vòng một trăm kiếp cuối, có được những tướng hảo của thân mà chỉ riêng chư Phật mới có. Đó là ba muơi hai tướng tốt (chính) và tám muơi vẻ đẹp (phụ) y như trên thân của Đức Phật. Y cứ trên những tướng này, nếu một vị Phật đích thực có mặt, ngài có thể được nhận ra dễ dàng. Thí dụ như trong Kinh Chuyện Du Hành nói: “Đầy đủ những tướng chính và phụ, ngài giống như mặt trăng giữa những ngôi sao.” Điều này có nghĩa là những tướng chính và phụ dần dần phát triển trong vòng lâu dài của một trăm kiếp. Đây là ý nghĩa của ba đại A-tăng-kỳ kiếp và một trăm kiếp.

Không những Đạo Phật được biết đến vì đặt trọng tâm trên sự phát triển tâm, mà còn được biết vì xem tâm và thân không phải là hai thực thể riêng rẽ, trái lại cả hai là một. Tu luyện trong một thời gian dài vô tận, chúng ta sẽ dần dần đoạn dứt những phiền não khác nhau. Như thế, Phật đạo lâu xa và lớn lao với những kiếp kéo dài vô lượng có thể chia thành một số những giai đoạn tiệm tu.

Trong Duy Thức Học Phật Giáo, những giai đoạn này là năm giai đoạn chuẩn bị, áp dụng, tuệ giác, tu tập, và kết thúc, được gọi là năm giai đoạn trên đường tu tập theo Duy Thức.

Trong những giai đoạn này, bốn giai đoạn đầu tu tập với mục đích trở thành Phật, là nhân của Phật quả, và được gọi chung là những giai đoạn nhân. Mặt khác, giai đoạn cuối cùng là giai đoạn của vị Bồ-tát trở thành Phật trên căn bản sự tiến tu này. Vì trở thành Phật là kết quả của việc tu tập, nên được gọi là quả Phật. Quả Phật gồm cả giác ngộ và Niết-bàn, và như vậy thật tuyệt vời, không ngôn từ nào diễn tả nổi. Sự kiện vị chân Bồ-tát, qua tu tập ba đại A-tăng-kỳ kiếp và một trăm kiếp, chứng đạt quả giải thoát ngang với chư Phật từ xưa là chứng đạt quả vị Diệu giác và Niết-bàn.

Trong giai đoạn đầu tiên chuẩn bị, ta tiến tu tất cả các loại thiện pháp, và hướng về Phật tánh. Dĩ nhiên, sự sinh khởi một ý hướng đạt được giác ngộ vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong bước đầu tiên này. Dựa vào niềm tin sâu xa và sự hiểu biết quan điểm Duy Thức, sáng suốt tìm cầu Phật quả, và quyết tâm vững chắc hiện thực trí tuệ và Niết-bàn, chúng ta có thể thật sự bắt đầu khởi hành trên Phật đạo của ba A-tăng-kỳ kiếp. Khả năng có thể liên tục bước đi trên Phật đạo tùy thuộc vào ý muốn khởi đầu kiên định như thế. Thể nghiệm rằng tất cả pháp chỉ là thức biến sẽ bắt đầu xảy ra trong giai đoạn thứ ba tuệ giác, nhưng muốn tới giai đoạn này, cần thiết phải tiến lên mức độ nỗ lực tu tập, đó là giai đoạn áp dụng.

Những phiền não của tâm là những chướng ngại chính trong việc thành tựu Phật quả, và được chia ra thành hai loại tổng quát là phiền não chướngsở tri chướng, và lại được phân biệt thêm thành hai loại, loại khởi lên do phân biệt đối đãi và loại khởi lên tự nhiên. Loại khởi lên tự nhiên là những phiền não của tâm trong hai loại chướng ngại bẩm sinh. Ngược lại với những loại này, loại khởi lên do phân biệt đối đãi là những phiền não của tâm trong hai loại chướng ngại huân tập sau khi chúng ta được sinh ra. Người ta nghĩ rằng những phiền não bẩm sinh thì khó trừ bỏ hơn những phiền não sinh ra từ phân biệt.

Trong những chướng ngại của tâm, vào thời kỳ chuẩn bị và thời kỳ áp dụng tu tập, chỉ những hiện hành của phiền não chướngsở tri chướng dấy khởi vì phân biệt mới được dập tắt. Dập tắt hiện hành có nghĩa phiền não chướngsở tri chướng được dập tắt từ trong chủng tử, nhưng chính những chủng tử của hai loại chướng ngại đó thì không trừ bỏ được.

Trong giai đoạn thứ ba của tuệ giác, ta trừ bỏ được chủng tử của phiền não chướngsở tri chướng dấy khởi lên vì phân biệt, do trí tuệ thanh tịnh sinh khởi, và kết quả là có được tuệ giác hiểu biết nguyên lý thế gian không gì khác hơn là thức biến mà thôi.

Một khi hoàn toàn đạt được tuệ giác hiểu biết nguyên lý là tất cả các pháp chỉ là thức biến trong quá trình nhận thức, ta tái tạo nỗ lực đào luyện tâm linh dựa trên tuệ giác hiểu biết này vào giai đoạn kế tiếp là giai đoạn tu tập thứ tư. Trong giai đoạn này, hiện hành của những phiền não chướngsở tri chướng bẩm sinh được dập tắt, và hơn nữa, những chủng tử cũng dần dần bị loại trừ. Các nhà Duy Thức chia giai đoạn này ra làm mười mức độ, tới mức độ thứ bảy, hành giả hãy còn phải áp dụng nỗ lực ý thức trong khi hành thiền.

Nhưng từ giai đoạn tám trở lên, áp dụng nỗ lực không còn cần thiết nữa, và ta tu tập Phật đạo không qua nỗ lực (vô công dụng hạnh).

Vị chân Bồ-tát, trong những giai đoạn từ giai đoạn chuẩn bị tới giai đoạn tu tập, đầu tiên là dập tắt những hiện hành của những phiền não, rồi loại bỏ những chủng tử phiền não, và cuối cùng tẩy trừ được dấu ấn và khuynh hướng nghiệp của những tâm hành phiền não đã theo sát bản thân mình.

Tiến trình tu tập như đã nói rõ trong việc dứt bỏ phiền não qua những giai đoạn nhân thì gọi là dập tắt, loại bỏtẩy trừ. Khi tất cả những chướng ngại của tâm đã được hoàn toàn dập tắt, loại bỏ, và tẩy trừ, ta đạt được giai đoạn thứ năm và kết thúc. Giai đoạn kết thúc là giai đoạn thành tựu Phật đạo lâu dài sau ba A-tăng-kỳ kiếp. Ở đây, vị Bồ-tát chứng ngộ được thành quả tuyệt vời của Bồ-đề và Niết-bàn, và cuối cùng trở thành một vị Phật.

Như đã được giảng giải trước đây, Niết-bàn là trạng thái xả của tâm và thân, do kết quả trừ bỏ hoàn toàn phiền não chướng. Bồ-đề là trí tuệ thanh tịnh hiểu thấu các pháp đúng như đang là do trừ bỏ sở tri chướng. Trí tuệ này, hiểu các pháp đúng như đang là, là chức năng nhận thức tiêu chuẩn của chư Phật. Điều này có nghĩa là không có gì khác ngoài tám thức của chúng ta, sau ba A-tăng-kỳ kiếp tu tập, tính chất đã chuyển hóa. Điều này được gọi thức chuyển thành trí.

A-lại-da thức tái tạo thành đại viên cảnh trí; Mạtna thức thành bình đẳng tánh trí; Ý thức thành diệu quan sát trí; và tiền ngũ thức thành thành sở tác trí. Bốn loại trí tuệ này là nội dung của Bồ-đề.

Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu đặc biệt chú ý đến

bình đẳng tánh trí. Chúng ta biết Mạt-na thức là phần tiềm thức của tâm đã hiểu lầm A-lại-da thức tương-tụcđơn-thuần là một thực ngã và chấp chặt vào đó. Tới giai đoạn cuối cùng, tâm vị kỷ tiềm tàng trở thành nhận thức thanh tịnh thấy mình bình đẳng với người, không phân biệt. Có một khoảng cách không thể tưởng tượng được giữa lòng vị kỷ của ta và lòng từ của Đức Phật, khoảng cách đó là Phật đạo của ba A-tăng-kỳ kiếp – nói một cách khác, là một khoảng vô tận. Suy nghĩ kỹ về sự phấn đấu vô tận này, chúng ta có thể thể nghiệm được một cách tu tập nhàn nhã. Chúng ta quen xoay sở đủ cách để bảo đảm cuộc đời mình lúc nào cũng tiến hành mau lẹ và thuận lợi. Chúng ta tạo ra một khuôn khổ trong đó chúng ta thưởng ngoạn một cách dễ dàng và thoải mái, ưa chuộng việc gì đỡ mất thời gian và hoàn thành mau lẹ. Có được một khuôn khổ đưa đến kết quả mau lẹ do chúng ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày, rõ ràng là Phật đạo của ba A-tăng-kỳ kiếp không thể nào tương hợp được. Tuy nhiên, hiểu được sự vô minh của chính mình, chúng ta nhận ra là cần phải phá bỏ tất cả những khuôn khổ đã áp dụng cho tới bây giờ trong kiểu sống của mình. Được che dấu kỹ dưới ý nghĩ tìm cầu tiện lợi chính là cái khuôn cốt tìm cách tránh né chướng ngại không có giá trị tâm linh. Càng tránh né nhiều càng tốt. Cố gắng duy trì như thế, và đồng thời tìm giác ngộ trong việc dập tắt, trừ bỏ và xua đuổi những phiền não, việc này xem như có vẻ cực kỳ vị kỷ, và là một thái độ không xứng hợp khi bước đi trên Phật đạo.

Đạo Phật có khuynh hướng hiểu các pháp trong phạm vi thời gian dài. Có thể nói là đạo Phật diễn bày tính chất đặc biệt một khuynh hướng không chia chẻ sự vật ngắn hạn tạm thời. Chẳng hạn, một thí dụ tốt có thể được thấy trong “câu nói về tam quy” như “những đệ tử của ta, trong tương lai vô hạn, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.” Câu quy y tam bảo Phật, Pháp, Tăng này siêu vượt giới hạn của tương lai. “Những giới hạn của tương lai” dĩ nhiên ám chỉ một điều không bao giờ bị suy tàn, và như vậy căn bản là vô tận. Vì thế, nếu diễn giải lại cho dễ hiểu hơn, có nghĩa là “dù ở bất cứ nơi đâu” “dù bất cứ lúc nào” v.v. Chúng ta là đệ tử của Phật sẽ quy y Phật, quy y giáo pháp của ngài, và quy y tăng đoàn trong thời gian lâu dài cần thiết, không đặt giới hạn. Đó là ý nghĩa “câu nói về tam quy.” Như vậy, “quy y” ngay từ đầu có nghĩa kéo dài tới tương lai vô tận, nói một cách khác, là không có giới hạn, và như thế, “dù lâu xa bao nhiêu” đều ngụ ý quan trọng.

Điều này có nghĩa nếu tỉnh thức được vô minh của chính mình, đặt mục tiêu hướng về giác ngộ, và kiên quyết từ nay trở đi hướng đời mình theo nếp sống của một Phật tử thuần thành, chúng ta không được chùn bước trước khoảng thời gian vô tận ba A-tăng-kỳ kiếp.

Trái lại, chúng ta phải nhất quyết chấp nhận viễn ảnh “dù phải mất bao nhiêu thời gian đi nữa.” Và chúng ta phải biết rằng trong đời sống dài vô tận theo Phật “dù phải mất bao nhiêu thời gian đi nữa,” cái giá tiêu chuẩn của một đời người thường tình với ưa thích tiện dụng, rẻ tiền, không tốn thời gian, và tắc trách hấp tấp, sẽ không được khuyến khích. Chúng ta nên biết rằng chỉ có liên tục chân thành tích lũy thiện pháp mới thúc đẩy chúng ta tiến vào Phật giới. Và điều này đích thực là nội dung của giai đoạn thứ nhất được chỉ dạy trong Duy Thức Học, giai đoạn chuẩn bị. Nói cách khác, đó là giai đoạn kiên định tìm cầu trên suốt Phật đạo trong ba A-tăng-kỳ kiếp.

Sự liên hệ giữa năm giai đoạn và ba A-tăng-kỳ được chỉ rõ trong bảng dưới đây:

giai đoạn chuẩn bị A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất
giai đoạn áp dụng
giai đoạn của tuệ giác A-tăng-kỳ kiếp thứ hai
giai đoạn tu tập (bậc một tới bậc bảy)
giai đoạn tu tập (bậc tám tới bậc mười) A-tăng-kỳ kiếp thứ ba
giai đoạn kết thúc

THOÁI CHUYỂN VÀ TU LUYỆN

Con đường tu tập theo Duy Thức Học khởi đầu với giai đoạn chuẩn bị. Ở thời điểm này “cái tôi” đã bắt đầu hiểu một cách sâu sắc sự vô minh của mình và tha thiết mong cầu về cảnh giới Phật, cuối cùng đào luyện một quyết tâm kiên cố tiến vào cảnh giới Phật dù gặp trở ngại. Quyết tâm tiếp tục tiến bước trên Phật đạo này, dù bất cứ chuyện gì xảy ra, sẽ giao phó đời mình hoàn toàn cho một quyết tâm như thế mà không giữ lại một chút gì, diễn tả theo thuật ngữ Phật giáo, đó là phát tâm kiên cố. Việc phát tâm này không phải là một quyết định cẩu thả hay gượng gạo, mà chính là điểm khởi đầu cho giai đoạn chuẩn bị.

Kế đó vị chân Bồ-tát hành những thiện pháp khác nhau, chân thành tích lũy tư lương cần thiết cho việc tìm cầu Phật giới. Giai đoạn này được xem là giai đoạn quan trọng nhất vì nếu những tư lương cần thiết như thế không được tích lũy đầy đủ, vị Bồ-tát sẽ không thể nào tiến hành tới giai đoạn thứ hai là giai đoạn áp dụng tu tập. Tu tập thiện pháp trong giai đoạn này gồm cả lục độ, tứ nhiếp pháp, và những ai chú tâm vào Bồ-tát đạo nên thực hành đầy đủ những pháp nàỵ

Vấn đề bố thí đã được bàn khá nhiều trong phạm vi của tam luân không tịch (xin xem lại chương 6 “Ngã Sâu Kín Chìm Trong Lòng Vị Kỷ,” phần “Thức Biến Thứ Hai: Mạt-na Thức” và chương 9 “Tôi Là Ai?” phần Hữu Tình Thiếu Tánh Thành Phật”). Vì vậy, tôi sẽ không nhắc lại ở đây. Nhưng ý nghĩa của bố thí đã được dạy trong Đạo Phật, trong đó nếu được yêu cầu, người ta nên hiến tặng ngay cả mạng sống của mình, quả thật đã làm chúng ta cảm động khôn cùng. Cảnh giới Phật không thể đạt tới được trừ khi sự bố thí này được thi hành toàn vẹn, như vậy có thể xem đây là một điều quá ấn tượng, ngay cả đối với một người đặt hết tâm ý vào Bồ-tát đạo với quyết tâm vững vàng không bị lay chuyển. Đối mặt với cảnh giới Phật vô biên như thế, ta sững sờ, ngần ngại, và mất tự tin trong việc cố gắng tiếp tục sống theo đạo Phật.

Chao đảo này thường xảy ra trong thời kỳ đầu của giai đoạn chuẩn bị. Đây gọi là thoái chuyển. Trong khi chọn Phật quả là mục tiêu của mình, thay vì tiến về phía trước, ta thụt lui và chao đảo. Thời kỳ chuẩn bị trong xu hướng đầu tiên trên đường tu tập theo Duy Thức không phải là giai đoạn tiến bộ êm xuôi trôi chảy, mà biểu thị những đặc điểm ngoằn ngoèo và lên xuống.

Những nhà tiên phong trong Phật giáo đối diện với những vấn đề thoái chuyển như thế bằng cách nào? Một trong những thí dụ tốt nhất xoáy quanh một đại đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni là ngài Xá Lợi Phất. Theo Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, tuy Ngài Xá Lợi Phất là vị đã chứng ngộ theo thanh văn, đầu tiên ngài không phải là một vị thanh văn, mà tu tập Bồ-tát đạo, hướng đến Phật quả. Theo như câu chuyện trong kinh thì ngài Xá Lợi Phất đổi qua thanh văn thừa vì đã bỏ qua không tu hạnh bố thí một thời gian dài.

Có một vị Bà La Môn (một tu sĩ lo về nghi lễ cổ xưa cúng tế thần) tới ngài Xá Lợi Phất xin một con mắt. Ngài Xá Lợi Phất trả lời rằng: “Vì một con mắt thì không ích gì, hãy cho phép tôi hiến tặng nguyên cả thân thể tôi cho ngài.” Tuy vậy, người Bà La Môn cứ nhất quyết đòi con mắt của Xá Lợi Phất, nói: “Nếu đúng là ngài tu tập theo hạnh bố thí, ngài nên chỉ cho tôi con mắt của ngài, như tôi yêu cầu.” Thật vậy, trong hạnh bố thí, ta chỉ cho những gì được xin. Vì thế, ngài Xá Lợi Phất móc một con mắt ra, và đưa cho vị Bà La Môn.

Chuyện xảy ra sau đó thật là xúc động. Vị Bà La Môn ngửi tròng mắt ngài Xá Lợi Phất hiến tặng, la lên: “Ẹ, nó thúi quá!” Ông ta ném tròng mắt xuống đất và lấy chân chà nát. Ông ta đã xin một thứ mà Ông không thật sự cần, chỉ để thử hạnh bố thí của ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất, nhìn cảnh đó với con mắt còn lại, giận dữ nghĩ rằng: “Thật là một việc làm tồi tệ!” Rồi ngài nghĩ, “Một con người độc ác như thế thì thật khó mà cứu vớt. Ngay cả nếu ông ta đi theo Phật đạo và tu tập suốt cả đời, cũng không thể nào nhanh chóng đạt được giải thoát khỏi cảnh giới sinh tử mê mờ.”

Xem xét lại sự tu tập trong kinh nghiệm của mình, ngài thôi không tu tập theo Bồ-tát đạo đặt căn bản trên việc bố thí, và quay sang theo con đường thanh văn.

Không những Ngài Xá Lợi Phất thường thay Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, mà sau này ngài còn là một “đệ tử chuyển Pháp luân.” Đôi khi ngài được mô tả bằng cách ví Đức Phật như một cội cây, và ngài Xá Lợi Phất là bông hoa trang điểm cho cây. Nếu thực hành hạnh bố thí một cách tuyệt đối là một vấn đề rất khó khăn đối với một hành giả xuất cách như ngài Xá Lợi Phất, chắc là phải khó khăn hơn nhiều đối với chúng ta, những phàm phu chưa giác ngộ?

Trường hợp thoái chuyển được xếp vào ba loại.

Loại thứ nhất liên quan tới hành giả khi nhận thấy một cách sâu xa nội dung sự giác ngộ của chư Phật quá rộng lớn và thâm sâu, bèn cảm thấy khả năng của chính mình quá nhỏ nhoi đối với sự nghiệp này. Sự thoái chuyển loại này được gọi là thoái chuyển vì thấy ý nghĩa rộng lớn.

Loại thứ hai là trường hợp hành giả, khi nỗ lực hành bố thí ba la mật, trong lục độ, và toàn bộ con đường đại thừa, nhận thấy một cách sâu xa tu tập như thế cho tới khi thành tựu quá khó khăn, và vì vậy khởi lên những niệm bỏ tu. Loại này được gọi là thoái chuyển vì thấy tu tập các hạnh khó khăn.

Trường hợp thứ ba là trường hợp hành giả nhận thấy rằng thành tựu được giác ngộ của Phật cực kỳ khó khăn, và bắt đầu phát triển một quan niệm bi quan, dẫn tới sự thoái chuyển. Loại này được gọi là thoái chuyển vì thấy thành tựu giác ngộ của Phật khó khăn.

Tuy có thể đi những bước đầu tiên dũng mãnh với phát tâm tiến tới giác ngộ, nhưng nhắm tới quả vị Bồ-tát có thể dễ dàng cảm thấy bị choáng ngợp, từ đó có thái độ bi quan đối với bản tính và khả năng của mình. Mặc dù có phát tâm ban đầu, nhưng giữ được chú trọng không lay chuyển vào lý tưởng Bồ-tát không phải dễ.

Một dòng trong kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa nói rằng: “Vị Bồ-tát, trong khoảng suốt một trăm ngàn kiếp, không khởi một niệm sân khi bị mắng nhiếc, và không khởi một niệm vui khi được ngợi khen.” Một người mà không bị lay động bởi bất cứ lời khen hay chê là chân Bồ-tát, bởi vì hết cả tâm và thân đều chú trọng vào thành tựu giác ngộ. Chúng ta, những phàm phu hằng ngày trong đời thường dành nhiều thời gian vào việc được khen hay bị nhục, lúc nào cũng phồng lên xẹp xuống giữa vui buồn. Đó là vì chúng ta thiếu chú tâm vào mục tiêu của mình. Nhưng bằng cách tiếp tục đi trên Bồtát đạo với tâm ưu tiên, chúng ta sẽ không bị lay động bởi bất cứ loại khen chê nào. Ngay cả nếu khi không tránh được ba loại thoái chuyển:

  • vì thấy ý nghĩa rộng lớn,
  • vì thấy tu tập các hạnh khó khăn,
  • vì thấy thành tựu giác ngộ của Phật khó khăn trong giai đoạn chuẩn bị, ta cũng nhất quyết không lìa bỏ Phật đạo. Ưu tư về ba loại thoái chuyển này Duy Thức Học nói rằng: “Mài dũa cho tâm sáng, những người dũng cảm không nao núng.” Câu này được nhắc lại nhiều lần trong Thành Duy Thức Luận, sách tấn chúng ta những lúc do dự. Chúng ta nỗ lực để tiến vào cảnh giới Phật, thực hiện nếp sống theo đạo Phật. Mục tiêu trước mắt của chúng ta không phải là điều gì khác hơn là an trụ trong sự phát tâm giác ngộ, nhưng chúng ta ý thức là con đường đi tới cảnh giới này thì đầy những ảnh hưởng thoái chuyển với khuynh hướng bi quan. Vào những lúc như thế, chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa sách tấn trong câu “Mài dũa cho tâm sáng, những người dũng cảm không nao núng.” Chúng ta nên tiếp nhận điều này một cách sáng suốt và thanh tịnh, để âm vang sâu xa tận sinh mạng chúng ta, tạo ra sức mạnh cho tâm thường dễ bị thoái chuyển. Chúng ta cũng thấy biết đầy đủ thuận duyên lớn lao tiến vào Phật đạo đều đặn và chắc chắn.

 Video: Trích đoạn

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *