Kinh - Kệ

Duy Thức Học

✍️ Mục lục: Duy Thức Học

Duy Thức Trong Đời Sống 👉  Xem

DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG

II. CHÍN TẦNG TÂM THỨC

Phật giáo giải thích rằng nhận biết, quan niệm hay ý thức sai lầm là nguyên nhân gây đau khổ.  Chẳng hạn như trong Bát Chánh đạo, bước đầu tiên là Chánh kiến – nhận thấy sự vật như đang là.   Phật giáo nói rõ thực ngộ – với trí tuệ sẽ nhận chân được thực tại thay thế cho mê lầm đã nhìn thực tại méo mó – là con đường giải thoát chúng ta ra khỏi đau khổ.  Những ý niệm này là nền tảng của chín tầng tâm thức.

Đã có nhiều cố gắng ở Tây phương để khai phá những tầng lớp khác nhau của tâm thức con người, rõ nét nhất là qua phân tâm học và tâm lý học chiều sâu. Thần kinh học và bệnh học thần kinh cũng gia công tìm tòi một cách khách quan về những chức năng như: cảm giác, cảm xúc, sự hiểu biết và ký ức, có liên hệ với vận hành của não.  Ngược lại, Phật giáo tìm hiểu bề sâu của cuộc sống nặng về trực giác hơn.  Tuy thế, quan niệm Phật giáo về chín tầng tâm thức cũng đã soi rọi vào cùng những lãnh vực của hiện trạng con người mà phần lớn những giả thuyết y học và khoa học hiện đại đã đưa ra.

Trong Phật giáo, thức, dịch từ chữ Sanskrit vijnana, có nghĩa là khả năng phân biệt, hiểu biết hay nhận thức. Đức Phật đã gồm chức năng của thức vào trong ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.  Thức thường được hiểu là sự nhận biết, khả năng suy nghĩ hay là trạng thái thức tỉnh thông thường.  Tuy nhiên, trong bài này, chữ thức lại được dùng theo một nghĩa khác. Trong Phật giáo, thức hàm ý khả năng hay năng lượng luôn vận hành cho dù chúng ta có nhận biết hay không.

Thức vận hành trong nhiều giai tầng.  Mỗi một chúng sanh đồng hóa với môi trường chung quanh và tự thích ứng.  Chúng sanh tồn sinh tùy theo khả năng nhận biết và đáp ứng với hoàn cảnh.  Ngay cả cây cỏ cũng cảm được sự thay đổi thời tiết và thích ứng với sự khác biệt khí hậu trong mùa hè và mùa đông.  Chẳng hạn như, trong muà đông cây trơ trụi sẽ rụng những lá lớn trước để khỏi mất nhiều nước.

Cũng vậy, con người có khả năng đáp ứng với môi trường.  Thí dụ, ta có thể phân biệt thứ nào ăn được thứ nào không.  Chỉ nhìn trái cây đặt trong tô, nếu bằng sáp ta cũng có thể biết được.  Nhưng nếu khứu giác và xúc giác chúng ta không đúng, ta có thể nếm thử một miếng và biết ngay là đồ giả.  Sự phân biệt hay nhận thức rất cần thiết giúp con người sinh tồn.

SÁU THỨC ĐẦU TIÊN:

CẢM NHẬN, NHẬN THỨC VÀ HÒA NHẬP

Năm thức đầu tiên trong chín thức tương ứng với khái niệm quy ước về năm cảm thức: thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc chạm, và khởi động khi năm căn tương tác với môi trường.  Năm căn ví như cửa sổ, hay có thể là con đường, qua đó thế giới bên ngoài thông kết với thế giới bên trong; năm căn vận hành khá thụ động.

Thức thứ sáu kết hợp nhận thức của 5 thức trước thành những ảnh tượng tâm trí liên kết mạch lạc, hay những phán xét về thế giới bên ngoài.  Nếu một trong năm giác quan không làm việc hữu hiệu thì tâm có thể bị giới hạn trong khả năng nhận biết thế giới bên ngoài một cách chính xác. 

Ngược lại, cho dù ‘một cửa sổ’ có bị mây che, tâm trí vẫn có thể nhận biết đúng đắn nếu các thức kia vận hành tốt.  Thức thứ sáu cũng có thể vận hành một cách độc lập với năm thức trước như trong mơ hay khi tưởng tượng.

Thường thì năm giác quan khi vận hành hay bị méo mó.  Ta sẽ thấy là những ảnh hưởng tiêu cực từ thức thứ sáu, bảytám làm sai lạc nhận thức của tâm về thế giới bên ngoài. Nhận thức của chúng ta bị ảnh hưởng bởi thái độ của chính ta, tác động của nghiệp và sự vận hành bên trong các thức.  Một người khoẻ mạnh đầy sức lực thì đồ ăn đơn giản cũng thấy ngon miệng, còn người chìm trong nỗi sầu dù có là bữa tiệc thịnh soạn nhất cũng thấy nhạt nhẽo. Những hiện tượng như vậy tuy huyền bí nhưng thường xảy ra. Ngoài ra, mỗi giác quan cũng có thức riêng của nó. 

Về mặt sinh lý, các giác quan thường không đưa hết lên não những dữ kiện nhận được.  Đúng hơn, chúng lựa chọn và chỉ chuyển những điều “quan trọng.”  Như vậy ví dụ khi ta nói đến nhãn thức là nói đến năng lực của mắt để phân biệt và chọn lựa.  Chẳng hạn khi ta vô phương tìm ra chùm chìa khóa.  Thường trong trường hợp này, chìa khóa nằm ngay giữa phòng khách, nhưng ta không sao thấy ra.  Ta có thể tìm kiếm một cách mất bình tĩnh, nhưng chùm chìa khóa thì vẫn mất dấu vì mắt chúng ta đã “lựa chọn” thông tin nào sẽ được đưa lên não – chúng ta tự đặt để là chìa khóa không thể nào ở giữa phòng.  (Rốt lại, nếu nó có ở đó, hẳn ta đã thấy.)  Vì chấp chặt vào sự tin tưởng của mình nên thông tin mà mắt chúng ta nhận được – là chìa khóa nằm giữa phòng – đã không đưa được tín hiệu lên não.

Tu tập theo Phật giáo là thanh lọc các giác quan và những tầng tâm thức để có thể tiếp nhận các hiện tượng một cách rõ ràng và chính xác.  Hơn thế nữa, giác quan là nguồn giao tiếp giữa thế giới nhỏ bé của đời sống chúng ta với vũ trụ.  Như thế, thanh lọc các giác quan có nghĩa là sống hài hoà với vũ trụ, cùng hòa âm theo nhịp điệu.  Một người đã thanh lọc nhãn căn dù chỉ một cảnh đời tầm thường sẽ thấy đó là phép lạ rực ngời sức sống.  Người đã thanh lọc nhĩ căn có thể lắng nghe nhạc Mozart giữa tiếng em bé khóc khó chịu.

Người mù và điếc cũng có thể thanh lọc các giác quan.  Dù một vài giác quan bất toàn vẫn không thể ngăn cản họ cảm nhận tinh túy của mọi thứ, y như nhãn hay nhĩ thức toàn vẹn tự khắc giúp ta nhận biết.  Nhờ tu tập Phật pháp nên cho dù thân thể bị giới hạn, ta cũng có thể phát triển tâm một cách toàn vẹn.  Phần nào, sự thanh lọc tâm cũng đạt được tuệ giác, biết bản chất của mọi hiện tượng.

Nhờ thành quả của tiến bộ khoa học, mắt tai chúng ta đã phát triển năng lực vượt bực; ta có thể nhìn ra ngoài vũ trụ, nghe âm thanh sâu thẳm dưới đại dương. Nhưng quyền năng này có tìm được hạnh phúc tương xứng không?  Trong khi có khuynh hướng không ngừng hướng sự tìm tòi ra bên ngoài, khoa học chỉ tạo ra những bất hạnh nếu không có đời sống nội tâm phát triển và chín chắn tương xứng.

Còn gì nữa không?  Khoa học chưa phát minh được dụng cụ để ta nhìn và hiểu được tâm hồn kẻ khác.

Phật giáo giúp ta nhận biết được tâm ta và tâm người khác, hiểu một cách hoàn toàn tâm vận hành như thế nào.  Ta có thể nói Phật giáo là khoa học về tâm linh, là thuốc chữa bệnh tâm.  Trên hết, thanh lọc tâm – thanh lọc nhận thức và dự tính – chính là nền tảng để thanh lọc các giác quan và ý thức.

Đối với Helen Keller, người đã chiến thắng sự bất lực không nói, nghe hay thấy được, Mark Twain bảo: “Helen, thế giới tràn đầy những con mắt không nhìn thấy, con mắt đờ đẫn, vô hồn, nhìn trừng trừng.”  Twain cũng nhận xét hai đặc tính nỗi bật nhất của thế kỷ thứ 19 là Napoleon và Helen Keller.  Ông bảo Napoleon dự định thôn tính thế giới bằng sức mạnh và đã thất bại, Helen Keller, trong khi chịu đựng gánh nặng của ba thứ tật nguyền, đã thành công nhờ sức mạnh tâm linh phong phú.

THỨC THỨ BẢY:

(CHẤP) NGÃ HAY TIỂU NGÃ

Sáu thức đầu tiên đáp ứng với thế giới hiện tượng bên ngoài mỗi ngày.  Những sự vận hành này rất dễ nhận biết bởi nó hoạt động trên bề mặt bên ngoài của tâm – có nghĩa là thế giới ý thức của chúng ta.  Ngoài những ngoại lệ như giấc mơ, là khi thức thứ sáu hoạt động một mình, sáu thức đầu tiên liên tục đáp ứng với những điều xảy đến liên miên từ hoàn cảnh bên ngoài. 

Bởi sáu thức vận hành liên tục từ giây phút này qua giây phút khác, ta dễ lầm chấp mình sở hữu một cái ngã không hề thay đổi, và có lẽ là cái ngã này quản lý và kiểm soát sáu thức.

Chức năng đã khiến chúng ta tin vào sự hiện diện của cái ngã bất biến được gọi là thức thứ bảyThức thứ bảy biểu trưng cho thế giới tâm linh bên trong, và là nguồn gốc nhận diện cái ngã, hoạt động dưới danh hiệu là gìn giữ và phát triển cái ngã.  Hình như điều này tương ưng với quan niệm của Tây phương.

Trong thực tế, cái ngã là một giòng liên tục, thay đổi từng sát-na y như thân thể chúng ta hay các hiện tượng khác.  Do bởi thường chấp chặt vào cái ngã hay ego, ta cảm nhận như nó liên tục.  Ta nhớ rõ những biến cố xảy ra trong đời, ta dựng lên câu chuyện về chính mình.  Nếu không có khả năng này, thật khó mà hoạt động trong đời.  Sự chấp thủ vào một cái ta phù du sẽ tạo khủng hoảng nếu ta ngộ nhận, xem sáu thức là một tổng thể bất biến, nên vì vậy không hề tìm hiểu điều thực sự bất biến và sâu thẳm.

Thức thứ bảy còn biểu trưng cho khả năng phân biệt giữa ta với người, tạo ranh giới giữa mình và người khác, cũng là nguyên ủy của động lực tự bảo tồn chính mình.  Một lần nữa, thật khó mà hoạt động trong đời, nếu ta không có khả năng này. Tuy nhiên, rốt cục động lực hay khát vọng này lại đem đến đau khổ.  Ta có thể bị chi phối thật sâu xa bởi sự vận hành của thức thứ bảy và ý niệm về cái ngã tạo ra, nên tin tưởng rằng đó là điều cốt tủy, trong khi thực chất nó chẳng phải.  Chấp thủ vào cái ngã có thể đưa đến kiêu ngạo, ích kỷ, hoặc cảm thấy bất an hay ghê tởm chính mình.  Tuy nhiên, nếu từ bỏ cái ngã này, chúng ta có khuynh hướng sợ hãi cho là đã từ bỏ hiện hữu chính mình.  Vì vậy ta bám vào những câu chuyện tự vẽ về gốc gác của mình, ta nỗ lực vẽ vời thêm, củng cố thêm ý kiến và niềm tin của ta, những điều ta yêu hay ghét v.v…tưởng như bảo vệ cốt lõi tính cách riêng của mình.

THỨC THỨ TÁM:

 TÀNG TRỮ NGHIỆP

Tất cả kinh nghiệm trong đời sống hiện tại và quá khứ của chúng ta được tích lũy trong thức thứ tám, được xem là lãnh vực kinh qua chu kỳ sống chết.  Thức thứ tám gọi là thức Alaya.  Tiếng Sanskrit, Alaya có nghĩa là ‘tàng trữ’ hay ‘cất chứa’. Thức này nhận thành quả của tư tưởng, lời nói, hành động và cất chứa như những chủng tử hay tiềm năng.  Bởi chủng tử nghiệp nằm rất sâu trong tâm nên không bị thế giới bên ngoài ảnh hưởng.  Tuy nhiên, có một ảnh hưởng hỗ tương giữa những chủng tử nằm sâu trong thức Alaya và trên bề mặt ý thức, nơi ba hoạt động: suy nghĩ, nói năng và hành động được tạo tác.

Trên bình diện thực tế nhất, chủng tử nằm trong thức Alaya ảnh hưởng đến sự vận hành của bảy thức trước.  Nghiệp tác động lên mọi lãnh vực của thân và tâm.  Người ta nhận biết và đáp ứng cùng một hoàn cảnh trong nhiều cách khác nhau, tùy cá tính. Hơn thế nữa, những nét về thể chất như thân hình có thể hiển lộ cách sống, kinh nghiệm và kiến thức.  Như vậy, nhờ sự vận hành của nghiệp, ta đã hiện hữu về mặt tâm linh và thể chất trong đời sống hiện tại.  Sự thưởng phạt của nghiệp rõ nét nhất nơi nội tâm, cũng lộ ra bên ngoài qua môi trường và hoàn cảnh xã hội của một cá nhân.

Theo Josei Toda: “Tất cả việc làm của chúng ta trong đời sống trước được tàng giữ nguyên vẹn trong đời sống hiện tại.  Dù có thể nói: Những gì tôi làm trong quá khứ không dính dáng gì, tôi được sinh ra mới toanh; ta vẫn không sao trốn thoát được quá khứ một cách dễ dàng.  Tại sao tôi lại sinh ra nghèo hèn, sao tôi lại dốt nát?  Sao thương nghiệp của tôi cứ đi xuống dù tôi làm việc hết sức siêng năng?  Lời giải đáp cho các câu hỏi này nằm trong nhiều kiếp quá khứ.”

Toda tiếp tục: “Theo y học, qua nhiều năm mỗi một tế bào trong cơ thể chúng ta, từ con ngươi cho đến tủy sống đều được thay thế.  Trên nền tảng đó, có thể biện luận là mình không chịu trách nhiệm một món nợ năm năm trước.  Một mặt nào đó, một người có thể chất hoàn toàn khác đã tạo ra món nợ.  Tuy nhiên người đòi nợ vẫn đến không tránh được.  Tương tự, ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chịu trách nhiệm về những hành động quá khứ và nghiệp đã tạo tác. Tuy nhiên, cho dù hoàn cảnh hiện tại như thế nào, ta vẫn tự hoàn thiện mình một cách tự do nhờ những hành động gây tạo khởi từ phút giây này.  Thỏa mãn một cách nông cạn với cảnh sống hiện tại, hay oán hận hoàn cảnh, rốt cục đều chẳng có giá trị gì.”

Phật giáo dạy phải khởi động tạo điều tốt để đạt được trí tuệ và lòng từ bi sâu sắc hơn.  Trong khi sống có thể tạo lỗi lầm, nhưng nếu biết suy nghĩ về thái độ và hành động trong quá khứ, ta có thể sử dụng nỗi buồn hay sự bất hạnh làm đòn bẫy cho sự tự phát triển.

THỨC ALAYA VÀ CẬN TỬ

Vào lúc sắp chết, sức sống con người đi vào giai đoạn tiềm tàng – từ hữu tri đến vô tri qua ba giai đoạn

Thứ nhất, mọi hoạt động của tiền ngũ thức chìm xuống, trong khi thức thứ sáu vẫn còn vận hành. 

Thứ hai, thức thứ sáu đi vào giai đọan ngủ mê, chìm trong thức thứ tám hay thức Alaya; trong khi thức thứ bảy vẫn còn hoạt động trong sự nắm níu mãnh liệt vào kiếp sống mong manh. 

Thứ ba, rồi thức thứ bảy cũng chìm vào ngủ mê trong thức thứ tám.  Như vậy, chỉ còn thức thứ tám chín tạo nên ‘chiếc thuyền’ của đời sống bất tử, tương tục trong suốt chu kỳ tử sinh bất tận.

Trong khi chuyển đổi từ hữu tri qua vô tri, khả năng chúng ta đáp ứng với tác nhân bên ngoài cũng mờ yếu.  Đời sống ta sẽ giữ nguyên ở trạng thái tâm nào được coi là khuynh hướng căn bản.  Như thế, khi cái chết từ từ đến, lại càng có ít cơ hội cho ta sử dụng những phương tiện thế tục để thay đổi tình trạng sống căn bản. Danh vọng, quyền hành, địa vị xã hội, tình yêu thương của mọi người – chẳng còn gì có thể giúp ta.  Ngay cả những tư tưởng hay triết lý vĩ đại, nếu ta chỉ hiểu một cách nông cạn mà không biến chúng thành một phần đời sống, thì cũng chỉ thành hoàn toàn vô ích trước cái chết cận kề.  Khi mạng sống chìm vào tình trạng vô tri, quyền năng của ta ảnh hưởng môi trường chung quanh và bị ảnh hưởng lại của ta mất hẳn.

Thức Alaya đôi khi còn được gọi là “không biến mất” bởi chủng tử nghiệp cất chứa trong tàng thức không biến mất khi chết.  Đời sống cá nhân sẽ được đưa vào giai đoạn tiềm tàng do hậu quả của nghiệp.  Cho dù các thói quen, kỷ xảo, khả năng, đặc điểm, hay những điều tương tự không còn tương tục, những yếu tố sẽ quyết định sự hình thành điều kiện sống của chúng ta sau khi chết vẫn nằm trong thức Alaya

Chẳng hạn như thức Alaya của một người đã quy hướng về địa ngục, sau khi chết sẽ trải qua những khổ đau như trong địa ngục, do quả báo những điều đã làm khi còn sống.  Một người luôn bị chi phối bởi dục vọng sẽ bị hành hạ vì bất mãn nhiều hơn sau khi chết.

Năng lực nghiệp của ta sẽ ảnh hưởng hỗ tương vào những người thân (sống hay chết) hay hơn thế, ảnh hưởng đến nhân loại, tác động đến thú vật và cây cỏ. Một thay đổi tích cực về nghiệp lực tận sâu thẳm trong đời sống một người sẽ như bánh xe có răng, kéo theo sự chuyển đổi trong đời sống người khác.  Vì vậy, thay đổi nội tâm hay ‘cách mạng bản thân’ của một người, có thể thay đổi số phận gia đình người đó và cả xã hội.

Điều quan trọng cần nhớ là khi còn sống, dù cái ngã thay đổi từng giây phút, ta vẫn tạo thêm nhiều nhân mới xuyên qua những hành động tâm linh hay vật lý. Trong tiến trình này, hậu quả của các nhân quá khứ sẽ hiển lộ, theo đó lại tạo duyên cho nhiều thay đổi, giúp ta có cơ hội tạo thêm những nghiệp mới.  Cho dù có thể tạo chủng tử nghiệp mới, thức Alaya không bao giờ sạch hết vọng tưởng.  Sự thanh tịnh tuyệt đối chỉ tìm thấy trong thức thứ chín.

THỨC THỨ CHÍN:

TRONG SẠCH, ĐẠI NGÃ, PHẬT TÁNH

(Bạch tịnh thức)

Không chỉ tư tưởng chúng ta mà cả lời nói, hành động đều khắc sâu trong đời sống.  Nghiệp bao gồm cả tốt lẫn xấu, giác ngộ và vọng động – những năng lực đối kháng nhau bị ràng buộc trong cuộc xung đột không ngưng nghỉ. 

Nhờ lòng từ, ta có thể phát khởi quyết tâm tạo những nhân tốt, bù đắp lại những ảnh hưởng của nghiệp mê mờ đã để lại trong thức Alaya.  Ta có thể tiến đến sự tự cải thiện bằng cách đập tan tường thành ích kỷ và hy sinh đời mình vì lợi lạc mọi người.  Trong chiều hướng đó, ta có thể tác động sâu xa thức Alaya.

Về mặt lý thuyết, để vượt qua ảnh hưởng tiêu cực của những việc làm quá khứ, ta hẳn đã phải để một thời gian lâu xa làm việc thiện, vì đã tích lũy bao nhiêu nghiệp xấu từ thời vô thỉ, phải thay một hạt giống ác bằng một hạt giống thiện, từng chủng tử một.  Và cũng phải thận trọng tránh tạo các nghiệp xấu mới.  Thay đổi số phận hình như vô phương khi chúng ta sống trong thời đại theo kinh tạng là thời mạt pháp, nghĩa là khó mà không tạo thêm các nghiệp xấu mới.  Nhưng cái nhìn bi quan này bắt nguồn từ Thuyết Nhân duyên, chỉ đặt nền tảng trên tám thức đầu.

Quan niệm chín thức giải thích rằng chúng ta có thể đập tan tận gốc rễ những nghiệp xấu đã tích tụ. Nichiren dạy rằng dù đối với người ít phước đức hay đã tạo tội ác lớn, khi tìm đến được nguồn sâu thẳm hơn của cuộc sống, cũng sẽ nhận được cùng một tác dụng y như họ đã tạo nhiều nghiệp tốt trong quá khứ.  Tiến trình này như thế nào?

Thức thứ chín hay thức Amala là chìa khóa để chuyển hóa động cơ của thức Alaya.  Chữ Sankrit Amala có nghĩa là “trong sạch” “không nhiễm ô” “vô nhiễm”. Theo ý nghĩa tên gọi, thức Amala muôn đời không bị nhiễm ô bởi nghiệp tích tụ.  Kho chứa tàng thức, khi tích tụ những chủng tử nghiệp xấu, trở nên nhiễm ô với ba chất độc (tham, sân, si), cũng y như hơi thối bốc lên từ bãi rác.  Một giòng nước sạch, trong tuôn trào ra tận sâu thẳm của đời sống khi thức thứ chín được khai mở.  Tất cả những gì nhơ nhớp được quét sạch lập tức và cùng một lúc, cũng y như rác rưới được cuốn khỏi mặt đường sau trận mưa xuân.

Tự thức thứ chín là thực tại tối thượng của mọi vật và tương đương với Phật tánh đại đồng.  Phật giáo dạy rằng chúng ta có thể thay đổi ngay cả những nghiệp sâu xa nhất nhờ sử dụng khả năng nội tâm này của sự sống hơn là đấng thần linh bên ngoài xen vào giúp đỡ.

Thức Amala là một sức sống thanh tịnh, là năng lực sống, là nỗ lực để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.  Đó là Đại ngã phục vụ cho hạnh phúc của mọi người.  Năng lực làm ai cũng tuyệt đối hạnh phúc là bản nguyện của Chư Phật.  Bởi thế thức thứ chín được gọi là Phật thức, còn được gọi là Pháp tánh, sự biểu lộ tiềm năng giác ngộ nơi mỗi chúng sanh. Bạch tịnh thức cho phép chúng ta chuyển hóa nguyên cả mạng lưới ngấm ngầm đan chặt vào nhau của nhân và duyên đã tạo thành thức Alaya, đặt căn bản trên tuệ giác Phật chứ không phải vọng tưởng.

Chạm được đến thức Amala là tác động đến thức khác và tạo cơ hội cho tất cả các biểu hiện quyền năng vô hạn và trí tuệ bất tuyệt của Phật tánh.  Trên quan điểm của thức Amala, ta có thể thấy là tự bản chất, sự tích lũy nghiệp là cơ hội để hiển lộ Phật tánh.  Thức thứ bảy – qua đó ta phân biệt mình với người, là “vị trí nhận biết” để nhìn mọi thứ đều quý giá và đáng kính trọng.  Nói cách khác, ta có thể vượt qua cái ngã nhỏ bé và nhận biết được giá trị của tất cả mọi chuyện.  Thức thứ sáu sẽ buông bỏ các định kiến sai lầm để thấy được giá trị riêng biệt của tất cả.  Năm giác quan hay thức sẽ đóng góp vào việc hoàn thành Phật sự.

Quan niệm chín thức, khi phân tích việc tạo thành các tầng ý thức khác nhau của đời sống cá nhân cùng soi rọi ánh sáng trên tổng thể đời sống đó, đã đem lại trí tuệ trong lãnh vực y học và tâm lý. 

Nguồn Internet

✍️ Mục lục: Duy Thức Trong Đời sống 👉  Xem tiếp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *