
Kinh Đại Bi
✍️ Mục lục: Kinh Đại Bi
GIẢNG GIẢI KINH (TIẾP – 6)
Kinh Văn:
Hán văn: ―Bỉ đẳng chƣ Phật, vị chƣ hành nhân tu hành lục độ vị mãn túc giả, tốc linh mãn túc cố, vị phát bồ đề tâm giả, tốc lịnh phát tâm. Nhƣợc thanh văn nhân vị chứng quả giả, tốc lịnh chứng quả. Nhƣợc tam thiên đại thiên thế giới nội, chƣ thần tiên nhân vị phát vô thƣợng bồ đề tâm giả, tốc linh phát tâm cố, nhƣợc chƣ chúng sanh vị đắc đại thừa tín căn giả dĩ thử Đà La Ni oai thần lực cố, linh kỳ đại thừa chủng tử pháp nha tẳng trƣởng, dĩ ngã phƣơng tiện từ bi lực cố, lịnh kỳ sở tu, giai đăc thành biện.
(Việt dịch: Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: Công đức lục độ Ba La Mật chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; Mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; Hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; Các vị thần tiên trong cõi Tam Thiên Đại Thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề. Nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà la ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng. Lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.) Lược giảng:
“Các đức Phật ấy”: tất cả các đức Phật, tất cả các đức Phật trong quá khứ đã từng tuyên thuyết thần chú Đại Bi, “vì thương xót muốn cho người tu hành”: vì tất cả ngƣời tu hành, vì thƣơng xót ngƣời ‗tu hành Lục Độ Ba La Mật‘. Thế nào là Lục Độ Ba La Mật?, Lục độ đó là: ‗Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ‘. Bố thí để chế ngự lòng san tham, trì giới để chế ngự huỷ phạm, nhẫn nhục để chế ngự nóng giận, tinh tấn để chế ngự giải đãi, thiền định để chế ngự tán loạn, trí huệ để chế ngự ngu si.
Bố thí chế ngự lòng tham: bản chất con ngƣời vốn có lòng tham nên phải thực hành bố thí. Vậy nếu không có tâm tham thì có cần bố thí sao? Càng nên bố thí! Cho nên nói, thực hành bố thí thì không còn tâm tham lam, keo kiệt.
Trì giới chế ngự huỷ phạm: trì giới sẽ giữ quy củ, ngƣời không giữ quy củ chính là không giữ giới, ngƣời không giữ giới chính là không tin Phật pháp. Sau khi đức Phật nhập diệt „giới luật chính là thầy của đệ tử Phật‟.
Nhẫn nhục chế ngự nóng giận: quý vị là ngƣời nóng tính thì cần phải tu hạnh nhẫn nhục, đừng vì một chuyện nhỏ nhặt mà nóng giận, không nên có tâm ích kỷ. Không có tâm ích kỷ thì sẽ không có sự nóng giận, không nóng giận thì chính là tu hạnh nhẫn nhục.
Tinh tấn chế ngự giải đãi: quý vị có lƣời biếng không? Nếu có thì cần tinh tấn.
Thiền định chế ngự tán loạn: quý vị thích suy nghĩ vẩn vơ và theo đuổi vọng tƣởng, vui thích thì sanh tâm phan duyên, vậy thì cần tu công phu thiền định; Có thiền định rồi tán loạn của bạn đều tiêu tan.
Trí tuệ chế ngự ngu si: ngu si, vì sao có sự ngu si? Vì là không có trí tuệ, nếu tu trí tuệ thì ngu si dần tiêu trừ.
“Công đức lục độ Ba La Mật chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; Mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh”: khi Bồ tát thực hành Lục độ chƣa đầy đủ thì khi tụng chú Đại Bi liền đầy đủ. Ngƣời chƣa phát tâm bồ đề niệm chú Đại Bi thì rất nhanh phát Bồ đề tâm.
“Hàng Thanh văn chưa chứng may được chứng quả”: bậc nhị thừa Thanh Văn chƣa chứng đắc sơ quả, nhị quả tam quả, tứ quả A La Hán, niệm chú Đại Bi liền nhanh chứng quả.
“Các vị thần tiên trong cõi Tam Thiên Đại Thiên chưa phát lòng Bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề”: nếu trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới có các Tiên nhân và mọi ngƣời chƣa phát tâm Bồ đề, niệm chú Đại Bi liền nhanh đƣợc phát tâm Vô Thƣợng Bồ đề.
“Nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà la ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng”: nếu các chúng sanh chƣa tin vào pháp đại thừa, niệm chú Đại Bi, do thần lực của chú khiến cho căn lành đại thừa, hạt giống đại thừa, và mầm pháp bồ đề nảy mầm.
“Lại do sức từ bi phương tiện của ta”: ngài Quán Thế Âm nói, ta dùng năng lực, phƣơng tiện từ bi của ta để “khiến cho sự mong cầu của họ”: khiến cho tất cả chúng sinh, bất cứ mong cầu gì “đều được thành tựu”: đều đƣợc những điều mong muốn. Đạt đƣợc mọi mong muốn và đạt đƣợc mong cầu của bản thân, đây gọi là thành tựu, nghĩa là việc gì cũng thành tựu. Chỉ cần quý vị kiên trì trì tụng „Chú Đại Bi‟, quý vị có thể đạt đƣợc những gì quý vị mong cầu, mãn nguyện nhƣ ý.
Kinh Văn:
Hán dịch: Hựu tam thiên đại thiên thế giới, u ẩn ám xứ, tam đồ chúng sanh, văn ngã thử chú, giai đắc ly khổ, hữu chƣ Bồ tát vị giai sơ trú giả, tốc linh đắc cố, nãi chí linh đắc thập trú địa cố. hựu linh đắc Phật địa cố, tự nhiên thành tựu tam thập nhị tƣớng, bát thập tuỳ hình hảo, nhƣợc thanh văn nhân, văn thử Đà La Ni, nhất kinh nhĩ giả, tu hành thƣ tả thử Đà La Ni giả, dĩ chất trực tâm nhƣ pháp nhi trú giả, tứ sa môn quả, bất cầu tự đắc.
(Việt dịch: Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn Đà la ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trú, thì 4 quả sa môn không cầu tự được.) Lược giảng:
“Laị nữa” là lại nói thêm một lần nữa, “tam thiên đại thiên thế giới”: tam thiên đại thiên thế giới, trong những bài giảng trƣớc tôi đã nói nhiều lần, sợ có ngƣời không nhớ, cho nên tôi lại giảng lại. Một mặt trời và một mặt trăng, một núi Tu di, bốn Châu thiên hạ thì gọi là một thế giới. Một ngàn núi Tu di, một ngàn mặt trời và mặt trăng, một ngàn Tứ thiên hạ thì gọi là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn cái tiểu thiên thế giới thì gọi là trung thiên thế giới, và môt ngàn trung thiên thế giới thì gọi là đại thiên giới. Vì nói một ngàn (thiên) ba lần nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới.
“Những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm”: tam thiên đại thiên thế giới, tuy có nhiều mặt trời, nhiều mặt trăng, nhiều núi Tu Di, nhƣng cũng có nhiều nơi sâu kín, tối tăm. ‗U‘ chính là đen tối,; ‗ẩn‘ chính là nhìn không thấy; ―ám xứ‖ nghĩa là không có ánh sáng, là chỗ mà con ngƣời không nhìn thấy đƣợc, không nghe đƣợc. Đây là nơi tối tăm. Nơi tối tăm là ở chỗ nào vậy? Chính là tam đồ – Tam đồ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh; lại có thuyết nói tam đồ là huyết đồ, đao đồ và hoả đồ. Tóm lại mà nói, ba loại này đều là nơi không tốt để sống; mặc dù là chỗ không tốt nhƣng vẫn có những loại chúng sanh sống ở đó, vì bị sanh bởi nghiệp báo của mình, nên sống ở những nơi này.
Ở nơi chỗ tối tăm này sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt trời, mặt trăng, nhƣng “nghe thần chú của ta đây”: nếu đƣợc nghe chú này của ta; chú này là chú gì? Là chú Đại Bi. “đều được lìa khổ”: tất cả đều rời khổ đau đƣợc an lạc.Tại sao xa rời đƣợc khổ đau? Vì nghe thấy chú Đại Bi cho nên xa lìa khổ đau. Đây là chúng sanh trong ba ác đạo nghe đến chú Đại Bi thì đƣợc lợi ích.
“Các vị Bồ Tát”: còn có tất cả Bồ tát; những vị Bồ tát này là những vị Bồ tát mới phát sơ tâm, “vị giai sơ trú giả”: chƣa đạt đến quả vị sơ trụ. Quý vị biết sơ trụ là gì không? Không có ai biết? Trên bảng còn ghi rõ ràng, quả tu đã giảng qua, quý vị đều quên rồi? Thập tín, ‗phát tâm trụ‘ này chính là trụ thứ nhất, sơ trụ. Vị Bồ tát chƣa đạt đến sơ trụ, nếu niệm chú Đại Bi có năng lực làm cho đạt đến quả vị sơ trụ, “cho đến mau chứng ngôi thập trụ”: thậm chí cho đến địa vị thập trụ và thập địa.
Thập trụ là gì? Chính là quán đảnh trụ. Còn Thập địa, đầu tiên là hoan hỉ địa, hai là phát quang địa, cho đến thứ mƣời pháp vân địa. Tại sao là thập trụ địa? Thập trụ là từ phát tâm trụ đến quán đảnh trụ. Địa này đã giảng qua từ hoan hỉ địa cho đến pháp vân địa. “Mau đến quả vị Phật”: lại khiến Bồ tát đạt đến quả Phật địa. Phật địa chính là diệu giác. “Thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình”: tự nhiên thành tựu đƣợc ba mƣơi hai tƣớng và tám mƣơi vẻ đẹp của chƣ Phật.
“Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe”: nếu bậc nhị thừa Thanh Văn, nghe “qua chú này” nghe thấy qua tai một lần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni này mà “hoặc biên chép”: có thể dùng bút để biên chép lại, “tu hành môn Đà la ni này”: hay có thể tu hành. “dùng tâm chất trực”: chất trực nghĩa là không quanh co, tà vạy. Chất trực là Trực tâm, trực tâm chính là đạo tràng. Quý vị dùng tâm chất trực, thì có thể đạt đến quả vị mà quý vị mong muốn. “Như pháp mà trú”: Y theo pháp Đại Bi mà „trú‟. „Trú‟ chính là tu hành. “bốn quả sa môn”, là sơ quả, nhị quả, tam, tứ quả, tứ quả A la hán. “không cầu tự được”: quý vị tự mình không cầu cũng đắc đƣợc quả A la hán.
Hán văn: Nhƣợc tam thiên đại thiên thế giới nội, sơn hà thạch bích, tứ đại hải thuỷ, năng linh dũng phất, tu sơn sơn cập thiết vi sơn, năng linh dao động, hựu linh, hựu linh toái nhƣ vi trần, kỳ trung chúng sanh, tất linh phát vô thƣợng bồ đề tâm.
(Việt dịch: Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi Tam Thiên Đại Thiên dâng trào, sôi sục. Vách đá, núi nhỏ, núi Tu Di và núi Thiết Vi thảy đều rung động. Lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề) Lược giảng:
“Nước sông, hồ, biển cả trong cõi Tam Thiên Đại Thiên”: ở trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới, nƣớc sông, hồ, bốn biển lớn (tứ đại hải). “Có thể làm cho nước biển sôi lên”: khi quý vị trì tụng ―Chú Đại Bi‖, thì có thể làm cho nƣớc biển dâng trào, sôi sục. Hán văn dùng từ ‗dũng phất‘, ‗Dũng‘ có nghĩa là tăng lên; ‗phất‘ có nghĩa là nóng lên. “Vách đá, núi nhỏ, núi Tu Di và núi Thiết Vi”: núi Tu Di chính là núi Diệu Cao; núi Thiết Vi chính là ngọn núi bao xung quanh bốn bề địa ngục, “thảy đều rung chuyển”: chú Đại Bi có năng lực khiến cho núi Thiết Vi và núi Tu Di rung chuyển. “nghiền nát như bụi nhỏ”: lại có năng lực nghiền nát khiến cho đá sắt trong hai quả núi kia thành nhƣ hạt bụi., “những chúng sanh trong ấy”: tất cả chúng sanh ở trong núi Thiết Vi và Tu Di, “đều phát tâm Bồ Đề”: tất cả chung sanh ở hai núi ấy nhờ năng lực của chú mà phát tâm Vô Thƣợng Bồ Đề.
Hán văn: Nhƣợc chƣ chúng sanh hiện thế cầu nguyện giả, ƣ tam thất nhật, tịnh trì trai giới, tụng thử đà la ni, tất quả sở nguyện, tùng sanh tử tế, chí sanh tử tế, nhất thiết ác nghiệp, tịnh giai diệt tận, tâm thiên đại thiên thế giới nội, nhất thiết chƣ Phật, Bồ tát, phạm thích, tƣ thiên vƣơng, thần tiên long vƣơng, tất gia chứng tri.
(Việt dịch: Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi, nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi Đà La Ni, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng biết cho.) Lược giảng:
“Nếu tất cả chúng sanh”: nếu tất cả chúng sanh, “trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi” ở hiện đời cầu nguyện, có nguyện vọng, có chỗ mong cầu, rất mong muốn nguyện vọng này thành tựu, “trong 21 ngày”: trong thời gian ba bảy hai mƣơi mốt ngày; “giữ trai giới nghiêm sạch”: Hán văn dùng từ „tịnh trì trai giới‟: ‗tịnh‘ chính là thanh tịnh; ‗trì‘ chính là thọ trì chú Đại Bi; ‗trai‘ chính là ăn chay, không ăn tất cả thịt; ‗giới‘ là nghiêm giữ giới luật. “tụng trì chú Đại Bi Đà La Ni tất cả đều được toại nguyện”: tụng trì thần chú Đại Bi và cầu nguyện nơi chú Đại Bi thì tất cả mọi mong cầu chắc chắn nhất định đều thành tựu.
“Từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác”: tức là từ nơi này sanh tử đến nơi kia sanh tử; chính là từ kiếp sống sinh tử này đến kiếp sống sinh tử khác. “tất cả các nghiệp ác”: tất cả ác nghiệp tạo ra trong đời quá khứ, “đều mau tiêu diệt”: tất cả đều đƣợc tiêu diệt. “Trong tam thiên thế giới, tất cả Chư Phật, Bồ tát”: tất cả chƣ Phật, chƣ Bồ tát, “Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương”: Phạm Thiên Vƣơng, Đế Thích và Tứ Đại Thiên Vƣơng, “thần, tiên, long vương”: thần, tiên, long vƣơng, “thảy đều chứng biết cho”: họ đều tác chứng cho quý vị, nói: ―tội của quý vị đã tiêu rồi‖.
Hán văn: Nhƣợc chƣ thiên nhân tụng trì thử Đà La Ni giả, kỳ nhân nhƣợc tại giang hà đại hải trung mộc dục, kỳ trung chúng sanh, đắc thử nhân mộc thân chi thuỷ, triêm trữ kỳ thân, nhất thiết ác nghiệp trọng tội, tất giai tiêu diệt, tức đắc chuyển sanh địa phƣơng tịnh độ, liên hoa hoá sanh, bất thọ thai sanh ẩm noãn chi thân, hà huống thọ trì độc tụng giả, nhƣợc tụng trì giả, hành ƣ đạo lộ, đại phong thời lai, suy thử nhân thân, mao phát y phục, dƣ phong hạ quá, chƣ loại chúng sanh, đắc kỳ nhân phiêu thân phong suy trƣớc y giả, nhất thiết chủng chƣớng ác nghiệp, tịnh giai diệt tận, cánh bất thọ tam ác đạo báo, thƣờng sanh Phật tiền, đƣơng tri thọ trì giả, phƣớc đức quả báo bất khả tƣ nghì nghĩa.
(Việt dịch: Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này. Như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này thuấn nhuần thân thể thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ. Hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Như người tụng chú đi trên đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật. Cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!) Lược giảng:
“Nếu như tất cả hàng trời người thọ trì chú Đà La Ni này”: tất cả hàng trời hay ngƣời niệm chú Đại Bi, “tắm gội trong sông, hồ, biển cả”: nếu tắm ở trong sông hoặc trên hồ, biển cả; “những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này thấm nhuần thân thể thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt”: nếu tất cả chúng sanh đang ở trong các sông, biển, ao hồ đó đƣợc thấm ƣớt bởi nƣớc tắm của chƣ thiên nhân trì tụng thần chú Đại Bi thì tất cả các nghiệp chƣớng đều tiêu diệt. Thân thể quý vị tắm nƣớc này mà nƣớc này chạm đến thân thể ngƣời khác thì tội ngƣời khác cũng tiêu diệt! “liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ”, thì có thể sanh đến các cõi tịnh độ khác. “Hóa sinh nơi hoa sen”: sanh ra ở những cõi nƣớc Tịnh độ, đƣợc sinh ra từ hoa sen báu; “không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa”, không phải chịu từ trong bụng mẹ sinh ra, cũng không phải thấp sanh, phải noãn sanh nữa. “Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng”: những chúng sinh khác chỉ nhờ chút ảnh hƣởng nhƣ thế mà còn đƣợc vô lƣợng lợi ích nhƣ vậy, huống gì quý vị là ngƣời thọ trì đọc tụng.
“Nếu có người trì tụng chú đi trên đường”: nếu có ai có thể trì tụng chú Đại Bi khi đi trên đƣờng; “có ngọn gió thối qua mình”: bất ngờ cơn gió thổi đến, khi thổi đến thân thể ngƣời thọ trì chú Đại Bi, hoặc thổi qua tóc, hoặc thổi qua y phục; “nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt”: Gió này từ thân những ngƣời đang tụng chú thổi qua hễ các chúng sanh nào gặp đƣợc làn gió này thì tất cả nghiệp ác, chƣớng nặng (Giết cha, giết mẹ, giết tổ sư, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu) thảy đều tiêu trừ. “không còn đọa vào tam đồ”: lại càng không bị sanh vào ba đƣờng ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không thọ khổ trong ba ác đạo. “Thường sanh ở trước chư Phật”: và luôn luôn sanh ra ở trƣớc chƣ Phật. “Người trì tụng chú”: quý vị thử nghĩ xem: ―Những ngƣời trì chú Đại Bi khi gió thổi qua thì các chúng sanh nhận đƣợc làn gió ấy thì các ác nghiệp tiêu trừ, đƣợc nhiều lợi ích nhƣ vậy‖; vậy thì ngƣời trực tiếp trì tụng “phước đức thật không thể nghĩ bàn”: quý vị thọ trì chú Đại Bi thì đƣợc phƣớc đức và quả báo không thể nghĩ bàn, không có điều gì để nói và cũng không có cách nào để biết.
※ ※ ※
Bây giờ nói về chủ đề: ― Trong thời đại khoa hoc, tại sao ngƣời phƣơng Tây xuất gia?
Ngày nay, khoa học phát triển một cách phi thƣờng, càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng có nhiều phát hiện mới lạ; thế nhƣng, sự phát hiện này đến bao giờ mới là tột đỉnh, mới là rốt ráo? Sự ―rốt ráo‖ này có thể nói là sẽ xảy ra ở vào bất cứ thời điểm nào, song cũng có thể nói là bất tận, không có ngày cùng tận, không thể nào hoàn tất đƣợc. Hiện tại, nền khoa học của chúng ta đƣợc gọi là tiến bộ, nhƣng sau 500 năm thì sự tiến bộ của khoa học ngày hôm nay lại bị xem là lạc hậu! Nền khoa học của 500 năm sau sẽ là tân kỳ; song đến 500 năm sau nữa, thì cái đƣợc mệnh danh là ―khoa học tân kỳ‖ của 500 năm về trƣớc lại trở thành lạc hậu, còn khoa học của 500 năm sau lại là mới mẻ. Hiện giờ ngƣời ta cho rằng những gì của quá khứ là xƣa cũ; song sau 500 năm nữa, trong tƣơng lai, tất cả những thứ tân kỳ của hiện tại cũng đều sẽ bị xem là xa xƣa, lỗi thời. Cho nên, khoa học và triết học không có ngày cùng tận; có thể nói là ―càng chạy càng xa,‖ chẳng có kết thúc.
Đặc biệt là khoa học và triết học ngày nay tuy có phát triển, nhƣng những lợi ích mà chúng mang lại cho con ngƣời thì ít hơn so với những điều bất lợi! Đó chính là tình trạng ―cái hại nhiều hơn cái lợi‖, đối với nhân loại thì sự giúp ích không nhiều hơn sự sát hại. Vì sao? Trƣớc kia, khi khoa học chƣa phát triển đến thế này thì ngƣời ta không bị chết nhiều nhƣ vậy; song le, hiện tại khoa học phát triển càng nhanh chóng thì trong tƣơng lai, nhân loại sẽ bị chết càng nhiều hơn, thậm chí có thể đi đến chỗ tận diệt! Nếu loài ngƣời bị hủy diệt thì khoa học, triết học còn ích dụng gì cho nhân loại nữa chứ?
Chắc chắn là không còn hữu dụng nữa!
Hiện tại tuy rằng khoa học và triết học phát triển nhƣ thế, nhƣng đối với những tai họa trên thế giới, thì vẫn chƣa thể tiêu diệt đƣợc. Thí dụ nhƣ việc nảy sanh nhiều căn bệnh quái lạ mà với sự phát triển của khoa học, con ngƣời vẫn chƣa có cách nào chữa trị hoặc trừ khử đƣợc, đó là một điểm. Rồi lại còn chiến tranh nữa, khoa học phát triển đến cực điểm thì chiến tranh sẽ càng khốc liệt bởi các vũ khí giết ngƣời mỗi ngày một tinh vi, kỳ diệu hơn; sự tinh vi kỳ diệu đó chẳng phải sẽ đƣa nhân loại vào chỗ chết sao? Nƣớc này gây chiến với nƣớc khác, nhà nọ tranh chấp với nhà kia, ngƣời này gây gổ với ngƣời nọ, tất cả đều hỗ tƣơng tàn sát lẫn nhau; cứ nhƣ thế thì biết đến bao giờ mới chấm dứt đƣợc? Anh đề phòng tôi, tôi đề phòng anh; anh muốn hủy diệt tôi, tôi cũng muốn hủy diệt anh, tất cả đều hỗ tƣơng hủy diệt lẫn nhau. Và rốt cuộc sẽ có một ngày tất cả đều ―cùng về chỗ chết‖ và lúc đó thì mọi ngƣời đều sẽ không còn việc gì để làm nữa!
Không phải chỉ có nạn chiến tranh là khó ngăn chận, khó dập tắt thôi đâu, mà còn có nào là nạn lũ lụt (không biết được là sẽ xảy ra lúc nào, ở nơi đâu), nạn hỏa hoạn (suốt ngày toàn nghe tiếng xe cứu hỏa hụ còi inh ỏi, ồn ào hơn tất cả), nạn gió bão (hễ cuồng phong thổi tới thì gây chết chóc cho biết bao nhiêu người)… Chỉ mấy hôm trƣớc đây, ở Đài Loan có nạn gió bão xảy ra gây thiệt hại cho cả mấy trăm ngƣời. Vào lúc khoa học tiến bộ đến dƣờng này, vẫn chƣa có cách nào khiến cho những tai ƣơng nhƣ thế biến mất, không còn xảy ra. Trông thấy tình trạng này, nếu muốn tiêu diệt tai ƣơng, chúng ta cần phải nghiên cứu đạo lý của nhân sinh, cần phải thấu hiểu các chân lý của nhân sinh, rồi sau đó mới có thể biết đƣợc căn nguyên, mầm mống của các tai ƣơng. Thế thì, muốn tránh tai ƣơng, điều thiết yếu là mọi ngƣời đều phải ―sửa sai, hƣớng thiện‖! Vì sao những tai ƣơng này xảy ra? Đó đều là do cộng nghiệp của mọi ngƣời cảm vời ra; nghiệp tụ tập lại với nhau nên mới có loại tai họa này xảy ra. Rồi lại còn nạn động đất nữa, đây là một thứ tai họa rất đáng sợ, nó khiến mọi ngƣời đều nơm nớp lo âu. Rất nhiều ngƣời ở thành phố San Francisco lo sợ sẽ có nạn động đất xảy ra. Thế nhƣng, chẳng có cách gì tiêu diệt đƣợc các tai ƣơng này bởi vì đó là do nghiệp chƣớng của chúng sanh chiêu cảm mà ra!
Nói đến ―nghiệp‖ thì chỉ có Phật giáo mới có thể giải thích một cách tƣờng tận về nguồn gốc, đạo lý của tƣớng nghiệp mà thôi. Do đó, chúng ta cần phải phát tâm xuất gia, nghiên cứu Phật Pháp; phải hiểu rõ Phật Pháp thì mới có thể chẩn cứu toàn thể nhân loại, thật sự cứu vớt nhân loại ra khỏi cảnh nƣớc sôi lửa bỏng đƣợc. Chúng ta phát tâm xuất gia là để nghiên cứu đạo lý của Phật giáo, dùng tinh thần từ bi vĩ đại của Phật giáo mà dấn thân cứu độ tất cả chúng sanh, khiến cho mọi tai ƣơng trên thế giới đều vô hình trung bị tiêu diệt. Cho nên, bây giờ chúng ta cần phải phát tâm buông bỏ các pháp của thế gian để nghiên cứu pháp xuất thế gian.
Trong lúc cả vũ trụ ngƣời ta đang hỗ tƣơng cạnh tranh, đua nhau sáng chế các lợi khí giết ngƣời để sát phạt nhau một cách điên cuồng, thì kỳ lạ thay, có những ngƣời lại muốn xuất gia, muốn học tập pháp môn không giết ngƣời! Có thể nói rằng sự kiện này sẽ làm cho toàn thể nhân loại trên khắp vũ trụ đều phải vô cùng kinh ngạc! Tôi hy vọng trong lúc nhân loại còn đang trong cơn kinh ngạc, thì quý vị đều có thể tỉnh ngộ, mọi ngƣời đều biết hồi quang phản chiếu, học tập pháp môn không giết ngƣời này.
Thế giới này là do tâm con ngƣời tạo thành. Con ngƣời có tâm hiếu sát, thích chém giết, thì cả thế giới này sẽ biến thành một bãi chiến trƣờng, một thế giới của chiến tranh. Con ngƣời có lòng hiếu sanh, độ lƣợng, thì thế giới này sẽ biến thành một thế giới hòa bình, hạnh phúc. Thế nên, hiện nay có đƣợc những ngƣời Tây phƣơng có thể giác ngộ trƣớc, phát tâm học tập về tôn giáo, về pháp môn không hiếu sát, đối với hiện tại mà nói thì đây là một bƣớc khởi đầu. Tôi hy vọng sau này, tất cả ngƣời Tây phƣơng cũng nhƣ ngƣời Đông phƣơng, đều sẽ sửa đổi tâm hiếu chiến thành tâm từ bi, từ bỏ tâm sân hận để đổi lấy tâm từ bi hỷ xả, và có thể cùng nhau nghiên cứu đạo Phật. Đây đối với ngƣời Tây phƣơng chỉ là mở đầu của sự giác ngộ; mong rằng trong tƣơng lai chúng ta có thể chuyển hóa các vị tổng thống của phƣơng Tây trở thành những vị tổng thống ủng hộ Phật giáo!
Bây giờ tôi sẽ công bố tên của những ngƣời Tây phƣơng xuất gia (tại Chùa Kim Sơn Thánh Tự).
Ngƣời thứ nhất tên là Quả Tiền, tự là Hằng Khiêm. Trƣớc đây, khi chƣa xuất gia, chú ấy cho rằng thế giới này không có gì đáng trân trọng, và đã sống nhƣ một khách nhàn du, chu du đây đó, không có gia đình để trở về. Thế nhƣng, bây giờ gặp đƣợc Phật Pháp rồi, chú bèn lấy chốn xuất gia làm chỗ nƣơng tựa để quay về.
Ngƣời thứ hai tên là Quả Ninh, tự là Hằng Tịnh.Quả Ninh vốn cũng tự cho rằng đời ngƣời thật vô vị, chẳng có ý nghĩa gì cả. Về sau, khi nhân duyên đến, chú ấy đã gặp đƣợc Phật Pháp và biết đƣợc rằng chân lý chân chánh vốn nằm trong giáo lý đạo Phật, nên bèn xin xuất gia.
Ngƣời thứ ba tên là Quả Hiện, tự là Hằng Thọ. Quả Hiện là một thanh niên trẻ tuổi cũng rất khác ngƣời. Chú ấy có ý muốn nghiên cứu về chân lý của nhân sinh, muốn tìm hiểu nơi quay về rốt ráo, cùng vấn đề sanh tử, cho nên chú đã xuất gia.
Ngƣời thứ tƣ tên là Quả Dật, tự là Hằng Ẩn. Cô thanh nữ này trƣớc kia cũng có ý tƣởng muốn chân chánh thấu hiểu về vấn đề nhân sinh, nay gặp đƣợc Phật Pháp mới biết rằng đây chính là những gì đáng cho con ngƣời nghiên cứu tìm hiểu, cho nên cô đã xuất gia tu hành.
Ngƣời thứ năm tên là Quả Tu, tự là Hằng Trì. Quả Tu vốn đã nhận thức rất rõ ràng về thế giới này, cô ta đã có đƣợc cái nhìn thấu suốt và đã có thể buông bỏ hết mọi thứ, một lòng tha thiết muốn tu Đạo. Cô ta có nói mấy câu nhƣ sau:
Quả tất năng đắc,
Tu chƣ phúc đức,
Hằng niệm Định, Huệ, Trì Giới thành Phật.
(Quả sẽ đắc được,
Tu mọi phước đức,
Hằng nhớ Định, Huệ,
Trì Giới thành Phật.)
Bốn câu này là do chính Quả Tu sáng tác, rất có ý nghĩa.
Trên đây chỉ là sơ lƣợc về nhân duyên xuất gia của năm Phật tử ngƣời Tây phƣơng; nếu muốn kể chi tiết e rằng phải cần nhiều thời gian mới nói hết đƣợc!
Hán văn: Tụng trì Đà La Ni giả, khẩu trung sở xuất ngôn âm, nhƣợc thiện nhƣợc ác, nhất thiết thiên ma ngoại đạo, thiên long quỷ thần văn giả, giai thị thanh tịnh pháp âm, giai ƣ kỳ âm khởi cung kính tâm, tôn trọng nhƣ Phật.
(Việt dịch: Lại nữa, người trì tụng Đà La Ni này. Khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh. Đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.) Lược giảng:
“Người trì tụng Đà La Ni này”: quý vị chỉ học thuộc, hay học một cách đơn thuần mà không trì tụng thì cũng vô ích. Quý vị phải ‗trì tụng‘. „Tụng‟ chính là không cầm kinh, không cầm chú mà vẫn niệm đƣợc chú Đại Bi. „Trì‟ nghĩa là không phải ngày nay tụng mà ngày mai không tụng, rồi hôm sau lại tụng; „Trì‟ chính là ý nghĩa kiên trì, trì tụng không gián đoạn. Hôm nay, quý vị niệm một trăm biến thì ngày mai quý vị niệm một trăm biến, hôm sau cũng niệm một trăm biến, mỗi ngày đều nhƣ vậy không gián đoạn, đây gọi là „trì‟; Quý vị làm gián đoạn thì không gọi là ‗trì‖! Không thể hôm nay là hoa sen, ngày mai là hoa súng đƣợc.
Có ngƣời cho rằng: ‗Tôi thuộc rồi, tôi ghi nhớ trong lòng, thì không cần trì tụng‘. Đó đều là vô ích, nhất định cần phải sáng tối tu hành nhƣ vậy không gián đoạn, một mảy may đều không lƣời biếng, không có tâm giải đãi, đây mới là trì tụng Đà la ni. Đà la ni này chính là tổng trì. Tổng trì là ―tổng nhất thiết pháp, trì vô lƣợng nghĩa‖; cũng chính là tam nghiệp thân khẩu ý quý vị tổng trì không phạm giới. Thân quý vị không tạo ―sát, đạo, dâm‖, tâm không sanh ―tham, sân, si‖, khẩu không khởi ác khẩu, nói dối, nói lời thêu dệt, nói lƣỡi đôi chiều; đây gọi là thân khẩu ý thanh tịnh, đây mới là chân chính trì tụng Đà la ni.
Quý vị thƣờng niệm chú Đại Bi, “khi thốt ra lời nói chi”: trong miệng phát ra âm thanh “hoặc thiện hoặc ác”: nếu thiện thì đó là lời nói tốt, nếu ác thì đó là lời nói xấu. Khi quý vị tụng Chú Đại Bi, ngay từ đầu không nên có bất kỳ lời nói ác ý nào, nhƣng thỉnh thoảng quý vị vô tình nói ra những lời ác khẩu. Nói nhƣ thế không xóa nghĩa là: ―À! Cứ chửi ngƣời khác thôi, lời ác khẩu này cũng là âm thanh của Pháp thanh tịnh!‖. ―Không phải, nhƣ vậy quý vị vô hình chung đã tạo khẩu nghiệp‖. “Tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần”: nếu là lời nói ác, đƣơng nhiên ngƣời nghe sẽ biết là những lời nói xấu. Còn nếu không biết là nói ác, thì ngƣời này giản đơn chính là không biết điều thiện, điều ác. Nhƣng đây là nói chƣ thiên trên trời, hoặc là thiên ma trên trời, hoặc là ngoại đạo, hoặc rồng trên trời, hoặc quỷ thần. Họ đều có ngũ thông phải không? (Họ chắc chắn biết điều gì thiện, điều gì ác). Tuy nhiên, thần lực không thể nghĩ bàn của ―Thần Chú Đại Bi‖ đã làm gián đoạn nhĩ căn của tất cả chúng sanh trời, thiên ma, ngoại đạo, quỷ thần nên khi họ nghe thấy âm thanh hoặc thiện hay ác này, “tất cả đều là tiếng Pháp âm thanh tịnh”: chúng cũng đều biến thành Pháp âm thanh tịnh và cũng chính là thuyết pháp cho họ. “Đối với người ấy khởi lòng cung kính”: Hàng ngày những chúng sanh trời ngƣời, thiên ma, ngoại đạo đều sanh tâm cung kính, tâm lễ bái ngƣời trì chú này, “tôn trọng như Phật”: họ tôn trọng ngƣời tụng trì chú Đại Bi này nhƣ là tôn trọng mƣời phƣơng chƣ Phật.
Hán văn: Tụng trì thử Đà La Ni giả, đƣơng tri kỳ nhân tức thị Phật thân tạng, cửu thập cửu ức hằng hà sa chƣ Phật ái tích cố.
(Việt dịch: Người nào trì tụng Đà La Ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân. Vì 99 ức hằng hà sa chư
Phật đều yêu quý.)
Lược giảng:
“Người nào trì tụng Đà La Ni này”: ngƣời có thể tụng chú Đại Bi, “nên biết người ấy chính là tạng Phật thân”: quý vị nên biết, ngƣời này chính là tạng thân của Phật; cũng chính là nhất định hiện thân Phật. Tại sao? Vì lực gia trì của tam muội. Tuy quý vị chƣa thành Phật, nhƣng có năng lực khiến quý vị có chân tƣớng quang minh giống nhƣ thân Phật; Đây là lực gia trì của chú Đại Bi, công đức của chú Đại Bi sẽ giúp quý vị. Nhƣng khi tụng trì Chú Đại Bi thì phải tuân thủ quy củ, giữ giới luật, không thể nói tôi là tạng thân của Phật, muốn làm gì thì làm. Tại sao là tạng thân Phật?. “Vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý”: bởi vì chín mƣơi chín ức hằng hà sa chƣ Phật thời quá khứ đều phát nguyện rằng: ―Những ai tụng trì chú Đại Bi, tôi sẽ ủng hộ ngƣời đó giống nhƣ ủng hộ mƣời phƣơng chƣ Phật vậy‖.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân tức thị quang minh tạng, nhất thiết nhƣ lai quang minh chiếu cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.) Lược giảng:
“Nên biết rằng người ấy chính là tạng quang minh”:
khi Quý vị tụng chú Đại Bi, thì xuất hiện nhiều loại ánh sáng, “vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình”: vì mƣời phƣơng Nhƣ Lai đều phóng quang chiếu đến quý vị.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị từ bi tạng, hằng dĩ Đà La Ni cứu chúng sanh cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng Đà La Ni cứu độ chúng sanh.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng từ bi”: nếu Quý vị có thể tụng chú Đại Bi thì chính là ngƣời có lòng đại từ, đại bi. Tại sao? “vì thường dùng Đà la ni cứu độ chúng sanh”: vì quý vị thƣờng dùng chú Đa la ni cứu độ tất cả chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh đều xa rời khổ đau đến bến bờ an lạc, tiêu tai tật bệnh, tội diệt phƣớc sanh.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị diệu pháp tạng, phổ nhiếp nhất thiết chƣ Đà La Ni môn cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn Đà La Ni.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp”: nên biết ngƣời tụng chú Đại Bi chính là hội tụ của diệu pháp. Tại sao? “Vì nhiếp hết tất cả các môn các môn Đà la ni”: vì Đại Bi Đà la ni có năng lực rộng thâu nhiếp hết tất cả các môn Đà la ni khác. Thâu nhiếp này giống nhƣ cục nam châm hút sắt vậy, hội tụ thu hút đà la ni khác lại với nhau. Cho nên, quý vị tụng trì chú Đại Bi chính là quý vị cùng thâu nhiếp các pháp vi diệu.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị thiền định tạng, bách thiên tam muội giai hiện tiền cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng thiền định”: ngƣời có thể tụng trì chú Đại Bi chính là kho tàng thiền định. Tại sao? “vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền”: vì có trăm ngàn tam muội luôn luôn hiện tiền. Cái gọi là trăm ngàn tam muội hiện tiền không có nghĩa là cả trăm, ngàn Tam-muội đồng thời hiện ra, cũng không phải là không đồng thời hiện ra. Đó chính là một thứ cảnh giới vi diệu bất khả tƣ nghị, không diễn tả bằng lời nói đƣợc! ―Tam-muội‖ chính là định lực; cả trăm, ngàn môn Tam muội khác nhau đều có thể xuất hiện cùng một lúc. Thế thì, nói ―không đồng thời hiện ra‖ là thế nào? Bởi vì nếu quý vị hiển xuất một Tam muội, nếu chỉ thành tựu đƣợc một loại Tam muội mà thôi, thì đây không phải là ―đồng thời hiện ra.‖ Tuy nhiên, có đôi khi, quý vị hiển xuất một loại Tam muội mà có thể bao gồm đƣợc tất cả các Tam muội khác, thì đó gọi là ―đồng thời hiện ra‖ vậy.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị hƣ không tạng, thƣờng dĩ không huệ quán chúng sanh cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng hư không”: quý vị nên biết, ngƣời này giống nhƣ hƣ không tạng, “vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh”: vì thƣờng dùng trí tuệ nhƣ hƣ không để quán nhân duyên của chúng sanh.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị vô uý tạng, long thiên thiện thần thƣờng hộ trì cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng vô úy”: nên biết ngƣời này không có sợ hãi, ―vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì”: vì có thiên long bát bộ tất cả thiện thần thƣờng ủng hộ ngƣời này.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị diệu ngữ tạng, khẩu trung Đà La Ni âm vô đoạn tuyệt cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng Đà la ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ”: quý vị nên biết, ngƣời thƣờng tụng chú Đại Bi chính là diệu ngữ tạng (kho tàng lời nói hay), ngôn ngữ của chú họ tụng trì đều là ngôn ngữ không thể nghĩ bàn. “Vì tiếng Đà la ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt”: vì trong miệng họ thƣờng luôn niệm chú Đại Bi. Bất tuyệt chính là luôn luôn niệm, không gián đoạn. Xƣa, tôi gặp rất nhiều thầy Tỳ kheo nhƣ vậy, từ sáng đến tối chuyên trì chú Đại Bi, không nghĩ ngợi việc gì khác, trì đến độ tất cả vọng tƣởng đều không có.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị thƣờng trú tạng, tam tai ác kiếp bất năng hoại cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng thường trú vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ”: quý vị nên biết ngƣời này là kho tàng thƣờng trú. “vì tam tai”: tam tai là gì? Hôm qua không phải đã giảng qua rồi sao? Thuỷ tai, hoả tai và phong tai. ―Nƣớc làm ngập sơ thiền, lửa đốt cháy nhị thiền, gió thổi bay tam thiền‖, hiện tại trên thế giới cũng có thuỷ tai, hoả tai, và phong tai nhƣng chỉ là nhỏ. Lớn là khi nƣớc thì nhấn chìm cả cõi sơ thiền, lửa thiêu đốt cả cõi nhị thiền, gió cuốn phăng cả cõi tam thiền. Đừng nói là ở nhân gian mà trên cõi trời cũng hứng chịu ba tai hoạ nhƣ vậy. “Ác kiếp”: chính là sự hoành hành của nạn đao binh, thuỷ, hoả, ôn dịch, “không thể làm hại”: quý vị thƣờng niệm chú Đại Bi thì những kiếp nạn trên đây không đến nơi thân quý vị.
Niệm chú Lăng Nghiêm, hiển nhiên công đức không thể nghĩ bàn; niệm chú Đại Bi cũng nhƣ vậy, có sức mạnh xoay chuyển trời đất, dời sông lấp biển. Tu pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn thành công rồi, quý vị có thể di chuyển núi Tu Di, quý vị có thể dời thế giới này sang thế giới khác, còn thế giới kia sẽ đƣợc dời đến thế giới này; và mọi ngƣời trên thế giới này không biết rằng quý vị đã di dời nó! Quý vị xem có vi diệu không? Từ phƣơng bắc dời đến phƣơng nam, dời đến hàng vạn dặm, nhƣng ngƣời khác không biết là có sự di dời, đây mới là chân chánh di dời! Quý vị phải tu thành rồi thì quý vị mới có năng lực nhƣ vậy, có thể nói nơi này không tốt thì quý vị dời đến nơi khác, hoặc dời thế giới khác đến thế giới này, hoặc di chuyển thế giới này sang thế giới khác, không cần ngồi hoả tiễn. Quý vị thấy có vi diệu không? Nhƣng quý vị cần phải tu thành tựu tu không tốt thì không đƣợc.
“Bất năng hoại cố”: tất cả kiếp nạn đều không thể phá hoại, cho nên gọi là tạng thƣờng trú.
Hán văn:Đƣơng tri kỳ nhân thị giải thoát tạng, thiên ma ngoại đạo bất năng khể lƣu cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại.) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát”: quý vị nên biết, ngƣời niệm chú Đại Bi thì đƣợc kho tàng giải thoát, vì “thiên ma ngoại đạo không thể bức hại.”: tất cả đều tự do, thiên ma ngoại đạo cũng không thể quấy nhiễu, giam giữ quý vị, không thể kiểm soát quý vị. Bình thƣờng quý vị có chút kỹ năng, đôi khi thiên ma ngoại đạo sẽ bắt quý vị làm quyến thuộc; nhƣng nếu quý vị có thể tụng chú Đại Bi, thì chúng sẽ không có cách nào để bắt giữ quý vị.
Hán văn: Đương tri kỳ nhân thị dược vương tạng, thường dĩ Đà La Ni liệu chúng sanh bệnh cố.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng Đà la ni trị bệnh chúng sanh.) Lược giảng:
Chú Đại Bi có thể trị tất cả bệnh trên thế gian, thế giới có tám vạn bốn ngàn loại bệnh, chú Đại Bi đều có thể trị. Nhƣng quý vị cần thành tâm trì tụng, mới có năng lực công hiệu này. Nếu quý vị không thành tâm trì tụng, bình thƣờng cũng không trì tụng, đợi đến khi ngƣời bệnh đến, quý vị nói: ―Ồ! Tôi giúp anh một biến chú Đại Bi, anh sẽ lành bệnh‖. Niêm một biến? Quý vị niệm mƣời biến cũng không có công hiệu! Hằng ngày phải tu pháp Đại Bi, tụng chú Đại Bi thì đến lúc dùng mới có linh nghiệm, mới có năng lực.
Hằng ngày, nếu quý vị không tu, không tụng, nói là: ―Bây giờ, tôi bắt đầu niệm, khi tôi cần sử dụng chú tôi mới niệm‖. Công hiệu cũng sẽ có nhƣng không lớn. Giống nhƣ hằng ngày quý vị không đào giếng, đợi khát nƣớc, muốn đi uống nƣớc nói: ―Chỗ này của tôi không có nƣớc, tôi muốn đào một cái giếng!‖. ―A, khi đào giếng thì phải đợi mấy ngày mới có nƣớc chứ‖. Quý vị nói: ―Tôi sẽ đào giếng liền và sẽ có nƣớc uống ngay bây giờ‖. Làm gì có đạo lý này! Tụng trì chú Đại Bi cũng nhƣ vậy.
Hằng ngày quý vị tụng trì chú Đại Bi khi dùng đến sẽ giống nhƣ kho tàng thuốc, tất cả các phƣơng thuốc đều có trong chú Đại Bi; quý vị niệm chú Đại Bi thì tất cả các bệnh đều không đến nơi thân quý vị.
Hán văn: Đƣơng tri kỳ nhân thị thần thông tạng, du chƣ Phật quốc đắc tự tại cố. kỳ nhân công đức, tán bất khả tận.
(Việt dịch: Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!) Lược giảng:
“Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông”: quý vị nên biết rằng ngƣời niệm Chú Đại Bi này có thần thông, “vì được tự tại dạo khắp các cõi Phật.” Ngƣời đó, trong lúc Thiền định, dù đang ngồi hay nằm, đều có thể đến các quốc độ của chƣ Phật. Muốn đến cõi nƣớc của đức Phật nào, ngƣời ấy chỉ cần nghĩ tới cõi nƣớc đó, chẳng hạn nhƣ: ―Tôi muốn đi xem cho biết thế giới Cực Lạc trông nhƣ thế nào!‖; thì liền nhập Thiền định và đến ngay thế giới Cực Lạc! Vì sao lại đƣợc nhƣ thế? Đó chính là do oai lực của Chú Đại Bi đã trợ giúp, khiến cho ngƣời ấy có thể du hành đến các cõi nƣớc của chƣ Phật.
―Dạo khắp‖ ở đây ám chỉ sự du hành của tự tánh, chứ không phải mang theo ―cái túi da hôi thối‖ này mà dạo chơi ở thế giới Cực Lạc đâu! Nếu cái thân này cùng theo đến thế giới Cực Lạc thì nó không thể trở về lại thế giới này đƣợc nữa, mà dù cho có trở về thì cũng không dễ gì mà có đƣợc sự thong dong tự tại! “Công đức của người ấy tán thán không cùng tận.” Dù có khen ngợi đến thế nào đi nữa thì cũng không thể kể cho hết công đức của ngƣời trì tụng Chú Đại Bi này đƣợc!
Hán văn: Thiện nam tử, nhƣợc phục hữu nhân, yểm thế gian khổ, cầu trƣờng sanh giả, tại nhàn tịnh xứ, thanh tịnh kết giới, chú y trƣớc, nhƣợc thuỷ, nhƣợc thực, nhƣợc hƣơng, nhƣợc dƣợc, giai chú nhất bách bát biến phục, tất đắc trƣờng mạng. (Việt dịch: Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ. Kết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc. Hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu.)
Lược giảng:
Đoạn này nói ngƣời muốn trƣờng sanh bất lão, muốn sống mãi, vĩnh viẽn không chết. Có một loại ngoại đạo, nói sanh đến thiên quốc thì sống mãi, nhƣng phải thoát khỏi bọc da hôi thối này. Trong giáo lý nhà Phật, nói đến thế giới Cực lạc, sinh ra từ hoa sen thì không còn đoạ lạc nữa; cũng không cần túi da hôi thối, thân thể giả tạm này. Nhƣng, nếu quý vị muốn không bỏ thân thể hôi dơ này mà vẫn đƣợc trƣờng sanh bất tử, thì cũng có một cách! Bồ tát Quán Thế Âm có phƣơng pháp có thể giúp quý vị, vậy nó nhƣ thế nào?
“Này Thiện nam tử”: thiện nam tử nghĩa là bao hàm cả nam lẫn nữ, thiện nam và thiện nữ là ngƣời tu mƣời điều thiện và giữ năm giới. “Nếu có kẻ nào chán sự khổ ở thế gian”: giả sử có ngƣời nào ghét cảnh khổ đau, sanh rồi chết, chết rồi sanh ở thế gian, “cầu thuốc trường sanh”: họ muốn cả đời này không chết, mà cũng lại không sanh, mãi mãi đƣợc sự sống trƣờng sanh. Có phƣơng pháp này, làm nhƣ thế nào? Quý vị ở trong “chỗ vắng lặng sạch sẽ”. Hán văn dùng từ ‗nhàn tịnh‘, ‗Nhàn‘ là nhàn nhã, là nơi vắng ngƣời, ‗tịnh‘ chính là thanh tịnh, đây là nơi rất yên tĩnh. “Kết giới thanh tịnh”: Ở nơi này dùng chú Đại Bi kết thành kết giới. Phƣơng pháp kết giới ở sau sẽ đề cập đến.
“Hoặc tụng chú vào trong áo”: lấy y phục của quý vị, niệm một trăm lẻ tám biến chú Đại Bi. “Hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng”: nếu quý vị muốn uống nƣớc thì trì một trăm lẻ tám biến chú Đại Bi sau đó mới uống; Quý vị muốn ăn đồ gì niệm một trăm lẻ tám biến chú Đại Bi sau đó mới ăn; Hoặc đốt hƣơng cũng niệm một trăm lẽ tám biến sau đó mới đốt; hoặc uống thuốc cũng niệm một trăm lẽ tám biến chú Đại Bi rồi mới uống. “Mỗi thứ đều tụng 108 biến”: tất cả niệm một trăm lẽ tám biến sau đó mới sử dụng. ‗Phục‘ chính là quần áo, là mặc quần áo; Đồ uống, đồ ăn, hƣơng hoa, thuốc cũng đều nhƣ vậy tụng nhƣ vậy.
Đây là đặt tất cả các đồ vật này lại chung với nhau và trì vào đó một trăm lẻ tám biến? Hay đọc riêng lẻ mỗi vật một trăm lẻ tám biến? Có những ngƣời tâm ý lƣời biếng nên đặt ra ý tƣởng tuyệt vời này: ―nếu tôi gộp lại với nhau rồi trì vào một trăm lẻ tám biến, tôi sẽ đƣợc tất cả‖. Điều đó cũng tốt, nhƣng hiệu quả sẽ kém hơn, vì nó đã phân tán rồi. Quý vị niệm mỗi cái một trăm lẻ tám biến tuy mất nhiều thời gian nhƣng hiệu nghiệm rất lớn. Nếu muốn hiệu quả nhỏ thì tiết kiệm đƣợc một ít thời gian, nhƣng khi trì chú xong thì làm sao? Thời gian để làm gì? Nếu quý vị muốn ngủ, thì không cần niệm thần chú. Vì vậy, tôi lựa chọn trì tụng thần chú một trăm lẻ tám biến.
“Tất sẽ được sống lâu”: nhất định mạng sống đƣợc lâu dài; dài là bao lâu? Không ai biết đƣợc, bởi không có giới hạn bao lâu miễn là quý vị muốn. Quý vị nói: ‗Ồ! Tôi không muốn sống trƣờng thọ nữa‘, quý vị có thể chết bất cứ lúc nào quý vị muốn, tuỳ thuận duyên đều có thể vãng sanh, cũng rất tự do. Vậy nên, cuộc đời quý vị dài bao lâu, không ai biết, không ai quyết định thay quý vị.
Hán văn: Nhƣợc năng nhƣ pháp kết giới, y pháp thọ trì, nhất thiết thành tựu, kỳ kết giới giả, thủ đao, chú nhị thập nhất biến, hoạch địa vi giới, hoặc thủ tịnh thuỷ, chú nhị thập nhát biến, tán tứ phƣơng vi giới, hoặc thủ bạch giới tử, chú nhị thập nhất biến, trịch trƣớc tứ phƣơng giới, hoặc dĩ tƣởng đáo xứ vi giới, hoặc thủ tịnh hôi, chú nhị thập nhất biến, hoặc chú ngũ sắc tuyền nhị thập nhất biến, vi nhiễu tứ biên vi giới, giai đắc, nhƣợc năng nhƣ pháp thọ trì, tự nhiên khắc quả.
(Việt dịch: Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y như pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu. Phép kiết giới như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy 4 phương làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả.) Lược giảng:
“Nếu có thể kết giới đúng pháp”: nếu quý vị có thể y theo pháp kết giới, “Y như pháp thọ trì”: y theo pháp thọ trì chú Đại Bi, cũng chính là tu theo phƣơng pháp này, cho đến tu trì Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn pháp; “mọi việc đều thành tựu”: tất cả đều thành tựu, mong cầu điều gì đều đƣợc thành tựu. “Phép kết giới thế nào?”: vậy làm thế nào để kết thúc pháp kết giới? Bây giờ, tôi sẽ nói cho quý vị.
“Lưỡi dao sạch”: quý vị tìm một con dao, tìm con dao để làm gì? Có phải để giết ngƣời? Không phải giết ngƣời, mà là chém vào đất, rạch vào đất. “Tụng đủ 21 biến”: sau khi quý vị cầm dao và trì đủ hai mƣơi mốt biến chú Đại Bi, xong rồi quý vị cũng phải tiến thành “tam thoá”, bên trên có phải đã giảng qua “tam thoá” rồi? Sau khi quý vị tam thoá xong, sau đó “rạch đất xung quanh làm giới hạn”: quý vị đến chỗ cần kết giới, quý vị muốn diện tích dài ngắn bao nhiêu và ở khu vực nào, thì dùng dao vạch thành cái rãnh làm ranh giới ở vùng đất mình đã chọn. Trong giới hạn của quý vị đã vạch ra, thiên ma, ngoại đạo, yêu tinh quỷ quái cũng đều không thể tiến vào đƣợc. Chúng có thể ở ngoài, nhƣng chúng không thể vào đƣợc; vì đây là sự vi diệu của chú Đại Bi. Quý vị kết giới rồi nơi này chính là phạm vi của quý vị.
“Hoặc tụng chú vào nước sạch”: bây giờ phần nhiều kết giới đàn thƣờng sử dụng nƣớc sái tịnh, vì để có nƣớc sái tịnh dễ, dùng một cốc nƣớc sạch, làm cách nhƣ này để thành nƣớc sái tịnh. Nƣớc sái tịnh “tụng đủ 21 biến”: quý vị niệm hai mƣơi mốt biến vào cốc nƣớc. Sau đó khi có pháp hội gì, thời có thể làm sái tịnh; sái tịnh cũng chính là kết giới. Mọi ngƣời niệm chú Đại Bi, cầm ly nƣớc sạch, vẩy nƣớc bằng cành Dƣơng Liễu nhƣ thế này, “rảy 4 phương làm giới hạn”: nƣớc sái tịnh rải đến nơi nào thì đó chính là phạm vi của kết giới.
“Hoặc tụng chú vào hột cải trắng”: hoặc dùng hạt cải trắng, đây là một loại hạt cải, “Tụng đủ 21 biến”: niệm hai mƣơi mốt biến chú Đại Bi, “liệng ra bốn phía làm giới hạn”: rải bốn phƣơng, hạt cải đến nơi nào, nơi đó chính là phạm vi của kết giới.
“Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn”: hoặc quý vị nghĩ đến nơi nào thì nơi đó là giới hạn. Ví dụ, khi tôi nghĩ: “À! Tôi nghĩ ánh trăng làm giới hạn.” Khi đó ánh trăng đƣợc bao gồm trong kết giới của tôi; nghĩ về mặt trời làm giới hạn, mặt trời cũng đƣợc bao gồm trong kết giới của tôi; nghĩ về tứ bộ châu là một trong những giới hạn của tôi, tứ bộ châu đều là những nơi nằm trong kết giới của tôi.
“Hoặc tụng chú vào tro sạch”: hoặc lấy tro sạch, tức là tro ở lƣ hƣơng, “tụng đủ 21 biến rải xung quanh làm giới hạn”: niệm đủ hai mƣơi mốt biến, quý vị rải đến chỗ nào chỗ đó là giới hạn. “Hoặc tụng chú 21 biến vào chỉ ngũ sắc”: hoặc dùng chỉ ngũ sắc niệm hai mƣơi mốt biến, “treo quanh bốn bên làm giới hạn”: treo xung quanh bốn bên làm giới hạn.
Cho nên, không có cách nhất định, phƣơng pháp kết giới này “Cách nào cũng được”: chúng ta dùng cách nào cũng đƣợc; “Giai đắc”: chính là đều có thể. Điều này rất tiện lợi, quý vị không có cái này thì có cái kia, không có chỉ ngũ sắc thì có tro, không có tro thì có nƣớc sạch, không có nƣớc sạch thì có hạt cải trắng, không có hạt cải trắng thì có dao. Quý vị làm cách nào đều cũng đƣợc. Quý vị thích cách nào thì dùng cách đó, Hoặc tôi nghĩ thế này: ‗Ôi! Nghĩ rằng trong vòng 500 dặm xung quanh nằm trong kết giới của mình‘. “Nếu tụng trì đúng pháp”: nếu quý vị nhƣ pháp thọ trì, “tự nhiên sẽ được hiệu quả”: chính là tự nhiên có năng năng lực đạt đến quả, có thể chứng đƣợc quả này, ―hiệu quả‖: chính là có thể đƣợc hiệu quả. (Đây là phần kinh văn Đức Phật giảng về cách làm kết giới đàn khi tụng chú Đại Bi, những ai tụng chú Đại bi thì nên kết giới đàn này rồi trì tụng sẽ đúng như pháp).
Hán văn: Nhƣợc văn thử Đà La Ni danh tự giả, thƣợng diệt vô lƣợng kiếp trọng tội, hà huống tụng trì giả. Nhƣợc đắc thử thần chú tụng giả, đƣơng tri kỳ nhân dĩ tằng cúng dƣờng vô lƣợng chƣ Phật, quảng chủng thiện căn, nhƣợc năng vi chƣ chúng sanh bạt kỳ khổ nạn, nhƣ pháp tụng trì giả, đƣơng tri kỳ nhân tức thị cụ đại bi giả, thành Phật bất cửu, sở kiến chúng sanh, giai tất vi tụng, linh bỉ nhĩ văn, dữ tác bồ đề nhân, thị nhân công đức vô lƣợng vô biên, tán bất khả tận.
(Việt dịch: Chúng sanh nào nghe danh tự của môn Đà la
ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu như kẻ nào có thể giúp chúng sanh tiêu trừ khổ nạn, tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức.) Lược giảng:
“Chúng sanh nào nghe danh tự của môn Đà la ni này”: nếu quý vị nghe thấy tên ―Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni‖ thần diệu chƣơng cú này, “còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp”: quý vị vừa nghe thấy liền diệt tội nặng sanh tử trong vô lƣợng kiếp. Có ngƣời nói: ―Tôi đã nghe rất nhiều lần, tôi có thể diệt rất nhiều tội nặng sanh tử trong vô lƣợng kiếp rồi‖. Quý vị đã diệt vô lƣợng tội nặng sanh tử, nhƣng quý vị lại tạo vô lƣợng tội nặng sanh tử; cho nên tội đã diệt không nhiều bằng tội đã tạo, vậy thì cũng nhƣ không diệt! Vì sao vậy? Bởi vì quý vị không thể y pháp tu hành; không tuân thủ giới luật, nếu y pháp tu hành, tuân thủ giới luật thì mới có thể diệt sạch hoàn toàn. “Huống chi là tụng trì”: nghe đến danh hiệu này, còn có thể diệt đƣợc tội nghiệp của quý vị nhiều nhƣ vậy, huống chi là quý vị có thể tụng trì Chú Đại Bi!
“Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì”: ngƣời nào đƣợc thần chú rồi trì tụng, nếu ai có thể tụng trì thần chú này. “phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật”: quý vị nên biết, ngƣời ấy đã cúng dƣờng vô lƣợng chƣ Phật trong quá khứ rồi. Quý vị phải biết, các quý vị cũng đã cúng dƣờng vô lƣợng chƣ Phật trong quá khứ rồi, mới có thể gặp đƣợc ―Đại Bi Tâm Đà La Ni‖! Nếu quý vị chƣa từng cúng dƣờng vô lƣợng chƣ Phật, nhất định quý vị sẽ không nghe đƣợc vào tai; giả sử nếu nghe đƣợc thì nghe từ tai bên này, lọt qua tai bên kia, rồi cũng không thể giữ lại ở chỗ của quý vị; “gieo nhiều căn lành.”: quý vị cúng dƣờng vô lƣợng chƣ Phật, rộng trồng các thiện căn mới gặp đƣợc thần chú Đại Bi.
“Nếu như kẻ nào có thể giúp chúng sanh tiêu trừ khổ nãn”: nếu quý vị lại có thể tụng Chú Đại Bi, quán tƣởng nhổ bỏ khổ nạn cho tất cả chúng sanh, “tụng trì đúng pháp”: trì tụng theo pháp Đại Bi. Điều quan trọng nhất của quý vị chính là tụng trì đúng theo pháp, quý vị không tụng trì đúng nhƣ pháp thì không có lợi ích gì.
“Nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi”: quý vị phải biết đƣợc ngƣời ấy, chính là hóa thân của Đại Bi Quán Âm Bồ Tát, đầy đủ tâm đại bi. “Không bao lâu nữa sẽ thành Phật”: không lâu thì nhanh chóng thành Phật. “Hành giả khi thấy mọi loài”: những ngƣời trì tụng chú Đại Bi khi tất cả chúng sanh mà họ nhìn thấy, “đều nên vì chúng tụng trì chú này”: đều vì những chúng sanh này mà tụng trì Chú Đại Bi; “khiến cho chúng nghe được‖: khiến cho tất cả chúng sanh, đều chính tai nghe đƣợc Chú Đại Bi, cùng với danh từ Chú Đại Bi. “cùng gây nhân Bồ Đề”: bởi vì họ nghe đƣợc Chú Đại Bi hoặc nghe đƣợc danh từ Chú Đại Bi, đều có thể làm nhân Bồ Đề xa. “Thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức”: những ngƣời thƣờng xuyên niệm Chú Đại Bi, và khiến cho tất cả chúng sanh nghe đƣợc âm thanh của Chú Đại Bi sẽ đƣợc vô lƣợng vô biên công đức, “tán bất khả tận”: không cách nào có thể tán thán cùng tận đƣợc công đức này của ngƣời ấy.
Hán văn: ―Nhƣợc năng tinh thành dụng tâm, thân trì trai giới, vị nhất thiết chúng sanh sám hối tiên nghiệp chi tội, diệc tự sám tạ vô lƣợng kiếp lai chủng chủng ác nghiệp. Khẩu trung táp táp tụng thử Đà La Ni, thanh thanh bất tuyệt giả, tứ Sa môn quả, thử sanh tức chứng. Kỳ lợi căn hữu tuệ quán phƣơng tiện giả, Thập địa quả vị, khắc hoạch bất nan, hà huống thế gian tiểu tiểu phƣớc báo; sở hữu cầu nguyện, vô bất quả toại giả dã‖.
(Việt dich: Nếu như dụng tâm tinh thành, thân giữ gìn trai giới, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước, tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay. Nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà la ni này âm thanh liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.)
Lược giảng:
“Nếu như dụng tâm tinh thành”: hán văn dùng từ ‗Nhƣợc năng‘ chính là ―nếu nhƣ, giả nhƣ‖; ‗tinh‘ là gì?, chuyên nhất gọi là ‗tinh‘; ‗thành‘ chính là chí thành. Chuyên nhất không xen tạp, chỉ có một lòng nhƣ vậy.
Tiếp theo làm gì? “Thân trì trai giới”: ‗Thân‘ chính là thân thể; ‗trì‘ chính là thọ trì; ‗trai‘ chính là ăn chay, không ăn thịt; ‗giới‘ chính là ngăn trừ tất cả việc ác, không làm các việc ác, tuân thủ giới luật. “Vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước”: tất cả chúng sanh đều có tội nghiệp, quý vị cần tinh chuyên trì Giới Luật, vì tất cả chúng sanh sám hội tội nghiệp đời trƣớc; “tự mình cũng sám hối”: đây không phải là vì chính mình, nhƣng cũng là vì chính mình, bởi vì chính mình cũng là vì chúng sanh, cho nên nói sám hối cho chúng sanh, cũng chính là sám hối cho chính mình. “những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay”: vô lƣợng kiếp lai, chính là từ vô thỉ kiếp đến bây giờ. Vô lƣợng kiếp đến nay, tất cả ác nghiệp đã tạo trong đời đời kiếp kiếp là vô lƣợng vô biên.
―Nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà la ni này‖: Hán văn dùng từ ‗táp táp (馺馺)‘ là âm thanh ngựa đi đƣờng; nói đến âm thanh quý vị niệm Chú Đại Bi thì cần liên tục, một câu này qua, câu sau lại nối tiếp, ―Nam mô hắt ra đát na đa ra dạ da…‖. Lúc nào cũng niệm Đà La Ni này nhƣ vậy, cũng giống nhƣ âm thanh ngựa chạy vậy. “Âm thanh liên tiếp không dứt”: liên tiếp không dứt tức là không ngừng, niệm một tiếng rồi lại một tiếng. Không phải là niệm Chú Đại Bi, có vọng tƣởng, rồi dừng lại; mà phải chuyên nhất tâm mình, tâm niệm chuyên nhất.
“Bốn đạo quả của bậc Sa Môn”: chính là Sơ quả A La Hán, Nhị quả A La Hán, Tam quả A La Hán, Tứ quả A La Hán;
“trong đời hiện tại”: trong đời này có thể chứng đƣợc quả A La Hán; nhƣng quý vị phải thành tâm trì tụng. “Nếu là hàng lợi căn”: lợi căn chính là có căn lành, trí huệ; “có phương tiện huệ quán”: ngƣời có trí huệ để quán sát, hiểu rõ đƣợc tất cả pháp môn phƣơng tiện. Thì “Thập địa quả vị, khắc hoạch bất na” nghĩa là “ quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó ”: các quả vị thập địa, chính là Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diễm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Quả vị Thập địa này, chính là quả vị của Bồ Tát. Tuy là nói quả vị của Bồ Tát không dễ gì đạt đƣợc, nhƣng quý vị niệm Chú Đại Bi, thì không khó đạt đƣợc. ‗Khắc‘ là có thể; ‗khắc hoạch‘ chính là có thể đạt đƣợc. Quả vị Thập địa vốn dĩ rất khó đạt đƣợc, nhƣng bởi vì hiện giờ quý vị tụng trì Chú Đại Bi, vậy thì không còn gì khó khăn nữa. “Huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian”: huống chi là phƣớc báo nhỏ nhoi ở thế gian chứ! Thế nào gọi là phƣớc báo nhỏ nhặt ở thế gian? Làm quốc vƣơng, làm tổng thống, hoặc làm ngƣời giàu có nhất; đây đều là phƣớc báo nhỏ nhoi ở thế gian, không đƣợc xem là vƣợt trội gì!
“Tất cả những điều mong cầu”: tất cả những gì quý vị mong cầu, “không gì là không thành tựu cả”: không có gì là không nhƣ ý mãn nguyện. Nhƣng quý vị còn nhớ không? Trừ một điều. Trừ điều gì vậy? Phải trừ bỏ tâm nghi ngờ. Quý vị “nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện”: nếu quý vị có một chút tâm nghi ngờ giống nhƣ một sợi tóc cũng không đạt đƣợc nguyện vọng này; cho nên cần phải thật thật sự tin tƣởng. Tôi thƣờng nói:
Quý vị không thể xả bỏ lòng nghi thì không thể sanh tín;
Quý vị không thể xả bỏ mê thì không thể đƣợc ngộ;
Quý vị không thể xả tà thì không thể quy chánh;
Quý vị không thể xả giả thì không thể thành chân; Quý vị không thể xả tử thì không thể dứt sanh.
Vì vậy, không thể sanh tâm nghi ngờ, ngƣời sanh chút ít tâm nghi thì không thể đƣợc nhƣ ý nguyện. Câu “tất cả đều thành tựu”: là tất cả đều thành tựu nhƣng phải không có tâm nghi ngờ; có môt chút tâm nghi ngờ thì không thành tựu.
Hán văn: ―Nhƣợc dục sử quỷ giả, thủ dã độc lâu tịnh tẩy, ƣ thiên nhãn tƣợng tiền thiết đàn tràng. Dĩ chủng chủng hƣơng hoa ẩm thực tế chi, nhật nhật nhƣ thị, thất nhật tất lai hiện thân, tùy nhân sử linh. Nhƣợc dục sử tứ thiên vƣơng giả, chú đàn hƣơng thiêu chi, do thử Bồ Tát đại bi nguyện lực thâm trọng cố, diệc vị thử Đả La Ni uy thần quảng đại cố‖.
(Việt dịch: Nếu người nào muốn sai khiến quỷ thần, thì tìm một chiếc xương sọ ở những ngôi mộ hoang, đem về rửa sạch. Kế đó thiết lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú. Mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh. Đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mệnh lệnh của người ấy sai bảo.) Lược giảng:
“Nếu người nào muốn sai khiến quỷ thần”: quý vị muốn chi phối quỷ thần, kêu quỷ thần làm việc cho quý vị. Giảng Kinh Đại Bi Đà La Ni đến chỗ này, hôm qua thầy Quả Ninh nói: ―Thật kỳ lạ! Pháp này thật kỳ lạ‖. Điều này chẳng có gì kỳ lạ cả, đây đều là việc thƣờng có trên thế giới, chỉ là chúng ta chƣa hiểu rõ đạo lý này, khi chƣa hiểu đƣợc pháp này, bèn cho rằng rất kỳ lạ. Cũng giống nhƣ nhân loại chúng ta chƣa bao giờ đặt chân lên mặt trăng và mọi ngƣời thấy lạ khi chúng ta lên mặt trăng và lấy vài viên đá về trái đất, mọi ngƣời cho rằng những viên đá này khác với đá trên trái đất. Vốn dĩ là đá trên mặt trăng cùng với đá trên trái đất cũng giống nhau, không có gì khác biệt, chẳng phải là đá trong mặt trăng quý giá nhƣ đá kim cƣơng. Tuy không quý giá nhƣ thế, nhƣng dùng vài trăm tỷ để lấy về, tuy cũng là đá, nhƣng vẫn quý giá. Bởi vì chúng sanh chúng ta không biết đƣợc đạo lý của pháp, cho nên nhìn thấy pháp này, cảm thấy rất kỳ lạ; thật ra đều là không rời tự tánh.
Bây giờ, là nói sai khiến quỷ thần. Sự việc sai khiến quỷ thần này, vốn là rất bình thƣờng; nhƣng ngƣời thông thƣờng không thể sai khiến quỷ thần, cho nên cảm thấy ngƣời có thể sai khiến quỷ thần rất lạ lùng. Ngƣời thời xƣa, rất nhiều, rất nhiều ngƣời có thể sai khiến quỷ thần. Thế nào gọi là sai khiến quỷ thần? Tức là kêu quỷ thần đến làm việc; có thể kêu quỷ thần đến quét nhà cho quý vị, lau bàn, nấu cơm, hoặc là mua một ít đồ, đây đều là việc có thể làm đƣợc. Nhƣng ngƣời hiện nay đều không tu pháp này, cũng không tin pháp này, cho nên hiện nay không còn ai có thể sai khiến quỷ thần nữa.
Quý vị biết ở Trung Quốc có một ngƣời tên là Kỳ Hiểu Đƣờng không? Ông ta sống vào thời đại triều Thanh của Trung Quốc. Kỳ Hiểu Đƣờng là một ngƣời rất thông minh, ông tham gia thi khoa cử, bởi vì trình độ văn chƣơng của ông quá xuất chúng, quan chủ khảo ganh ghét ông, cho nên ông không thi đỗ, ông bèn đi xuất gia. Ông ta xuất gia thì có năm con quỷ đến giúp ông làm việc. Năm con quỷ này vốn là gì? Không phải nói đây là ngũ quỷ sao? Lúc đầu ông đấu pháp với năm con quỷ ấy, năm con quỷ ấy không đấu lại ông, bèn quy y với ông. Quy y ông, bèn theo ông học pháp, ông kêu chúng làm việc gì thì chúng làm việc đó. Vì vậy, có việc gì ngoài mấy ngàn dặm, ông phái quỷ đến xem xét, thu thập một số thông tin, giống nhƣ gián điệp hiện nay vậy. Gián điệp của các quốc gia hiện nay, mọi ngƣời có thể nhìn thấy họ, nhƣ vậy vẫn chƣa phải là bí mật; còn loại gián điệp này, ngƣời không nhìn thấy chúng, nhƣng chúng có thể nhìn thấy ngƣời. Kỳ Hiểu Đƣờng nói: ―Ngƣơi đến bên đó xem ngƣời nào đó đang làm gì?‖, chúng liền đến nơi đó xem xét, trở về báo cáo với chủ nhân; bất luận là nơi nào cũng nhƣ vậy. Đây chính là tu pháp Đại Bi rất tinh, có thể sai khiến quỷ thần. Ngƣời sai khiến đƣợc quỷ này, ở đây nói quỷ nhƣng trong loại quỷ cũng bao gồm thần rồi.
Hán văn dùng từ “Thủ dã độc lâu, tịnh tẩy” nghĩa là “tìm một chiếc xương sọ ở những ngôi mộ hoang, đem về rửa sạch”: thế nào gọi là ‗ngôi mộ hoang‘? Chính là mộ phần trơ trọi không có chủ, cũng không có ngƣời chăm sóc. Ở Trung Quốc, ngƣời có con cái, thì sẽ có nghĩa trang, ngƣời chết đều đƣợc an táng cùng chỗ với nhau; đây gọi là mộ phần có chủ, có ngƣời quản, có con cháu quản. Còn ‗ngôi mộ hoang‘? Là mộ phần trơ trọi không có con cháu, không có ngƣời quản, không có ngƣời đến cúng tế; quý vị lấy xƣơng cốt bên trong mộ phần đó, lấy ra một khúc. Trên thân thể của ngƣời chết, bất luận là khúc xƣơng nào cũng gọi là ‗độc lâu‘. Vì sao phải lấy xƣơng sọ ở những ngôi mộ hoang này vậy? Bởi vì xƣơng sọ ở những môi mộ hoang này không có ngƣời cúng tế, cũng không có ngƣời quan tâm đến cho họ. Lúc này quý vị lấy xƣơng của họ về, dùng nƣớc rửa sạch, đừng để có một chút thịt nào trên đó, phơi khô; rửa sạch sẽ rồi, cũng không còn mùi hôi thối nữa.
“Trước tượng Thiên Nhãn”: Chính là ở trƣớc tôn tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Hơn một tháng sau, quý vị đến Hồng Kông, thì sẽ nhìn thấy tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát mà tôi đặt ở Hồng Kông; nhƣng chỗ tôi không có đầu lâu, cho nên không cần đến nơi đó để xem có đầu lâu hay không! “Thiết lập đàn tràng”: chính là thiết lập một nơi, bất kỳ ngƣời nào không thể vào trong đó, giống nhƣ kiết giới vậy. Nhƣ đàn tràng của chúng ta, ở trong là cúng dƣờng tƣợng Thiên Nhãn. Nhƣng trong pháp này không phải là cúng dƣờng tƣợng Thiên Nhãn, mà là thờ cúng đầu lâu.
“Dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh”: hằng ngày phải thay hƣơng, hoa nhiều lần; khi dùng cơm, dùng thức ăn đế cúng tế, dâng cúng cho họ. “Mỗi ngày đều”: ngày nào cũng nhƣ vậy.
“Đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân”: sau đúng bảy ngày, hồn của chiếc hộp sọ, chính là con quỷ ấy sẽ hiện ra. Bởi vì họ là xƣơng đầu lâu hoang dã, không đƣợc ai đến cúng tế, vào lúc này, có ngƣời đến cúng tế họ, họ cũng sẽ đến hƣởng những sự cúng tế này; sau bảy ngày, hoặc là ban ngày, quý vị sẽ nhìn thấy họ; hoặc là vào ban đêm sẽ nhìn thấy họ. Nhƣng khi quý vị nhìn thấy, đừng nên sợ hãi, nói: ―Ôi! Quỷ đến rồi!‖. Bởi vì quý vị cúng họ, tức là quý vị muốn gọi họ đến; nếu lúc đó quý vị sợ hãi, thì họ sẽ cho rằng quý vị không phải chủ nhân, và họ sẽ làm chủ nhân của quý vị, muốn đến sai khiến quý vị! Quỷ sẽ nói: ―Ngƣơi tìm ta đến để làm gì? Đƣợc thôi! Theo làm quyến thuộc của ta đi!‖. Quý vị bị họ dọa, dọa đến chết, vậy thì bị họ bắt đi rồi, quý vị bị họ bắt đi thì phải nghe sự chỉ huy của họ. Nếu quý vị không sợ họ, họ nhất định hỏi quý vị: ―Anh có yêu cầu gì với tôi? Kêu tôi làm gì?‖. Vậy thì quý vị có thể kêu họ làm việc gì đó. Lúc ấy, quý vị nhớ kỹ đừng quên Chú Đại Bi. Nếu quên niệm Chú Đại Bi, ồ! Con quỷ ấy sẽ giận dữ – quỷ giận dữ thì nguy lắm! “Tùy theo mệnh lệnh”: quý vị muốn kêu họ làm gì thì họ làm việc đó, quý vị nói: ‗Hãy dời ngọn núi ở phía trƣớc ra phía sau‘. Họ cũng có thể dời. Nói tóm lại, đều có thể làm đƣợc.
Hán văn: Nhƣợc dục sử tứ thiên vƣơng giả, chú đàn hƣơng thiêu chi, do thử Bồ Tát đại bi nguyện lực thâm trọng cố, diệc vị thử Đả La Ni uy thần quảng đại cố‖.
(Việt dịch: Như hành giả muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà la ni này.) Lược giảng:
“Như hành giả muốn sai khiến Tứ Thiên Vương”: quý vị nói: ―Tôi không muốn sai khiến quỷ thần, tôi muốn sai khiến Tứ đại Thiên vƣơng, gọi Tứ đại Thiên vƣơng làm việc cho tôi‖. Điều này cũng có thể làm đƣợc. Làm thế nào? “tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên”: quý vị dùng gỗ đàn hƣơng rồi niệm Chú Đại Bi vào; nhƣng không chỉ mỗi niệm Chú Đại Bi. Nếu quý vị không hiểu rõ chỗ này, hoặc quý vị chỉ niệm Chú Đại Bi, nhƣ vậy thì lại không làm đƣợc. Vẫn còn hai bài chú, là chú gì? Một là Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, hai là Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni. Hai bài chú này, phải niệm mỗi bài chú 108 biến, Chú Đại Bi cũng phải niệm 108 biến, sau đó quý vị đốt đàn hƣơng lên. Ở đây không nói đến Tứ Đại Thiên Vƣơng có hiện thân ngay không; nhƣng nếu quý vị thành tâm một chút, quý vị chú nguyện một lần không hiện thân, quý vị chú nguyện tiếp, thậm chí là quý vị tụng chú để thắp hƣơng hằng ngày. Gia trì vào hƣơng xong rồi, quý vị lại thắp lên, sau đó lại gia trì nén hƣơng thứ hai, ngày nào cũng thắp nhƣ vậy; cũng phải đợi đến ngày thứ bảy, vào lúc ấy, Tứ đại Thiên vƣơng sẽ hiện thân.
Đại sƣ Lục Tổ Huệ Năng ở chùa Nam Hoa, trải tọa cụ trong chùa, tất cả chùa Nam Hoa chu vi lớn khoảng 50, 60 dặm, đều đƣợc tọa cụ phủ kín; bốn góc chùa có Tứ Thiên Vƣơng hiện thân, đứng ở bốn góc. Vì sao vậy? Cũng chính là vì bình thƣờng Lục Tổ tu pháp Đại Bi, cho nên đến khi cần dùng Tứ Đại Thiên Vƣơng, ngài nói: ―Các ông hãy đến để canh giữ bốn phía cho ta!‖. Tứ Đại Thiên Vƣơng đều hiện thân! Ôi! Tứ Thiên Vƣơng hình dáng uy phong lẫm liệt. Ông Trần Á Tiên vừa thấy liền nói: ―Đây đúng là một Hòa thƣợng có thần thông thật phi thƣờng‖. Thế là ông ta liền dâng hiến cúng dƣờng toàn bộ nơi đó. Đây cũng đều là do pháp Đại Bi mà Lục Tổ tu, mới có thành tựu nhƣ vậy.
“Được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng”: bởi vì đại nguyện lực đại bi của Bồ tát Quán Thế Âm, đã phát lời nguyện: ―Có ngƣời nào có thể trì Chú Đại Bi, tất cả sở cầu, nhất định đƣợc thành tựu‖, cho nên nguyện lực vừa sâu vừa nặng. “Lại cũng do oai thần rộng lớn của Đà la ni này”: cũng là vì oai thần linh cảm của Đại Bi Đà la ni, rộng lớn vô biên, ngoài sức tƣởng tƣợng.
Hán văn: Phật các A Nan: Nhƣợc hữu quốc độ, tai nạn khởi thời, thị độ quốc vƣơng, nhƣợc dĩ chánh pháp trị quốc, khoan túng nhân vật, bất uổng chúng sanh, xá chƣ hữu quá, thất nhật thất dạ, thân tâm tinh tấn, trì tụng nhƣ thị Đại Bi Tâm Đà La Ni thần chú, linh bỉ quốc độ, nhất thiết tai nạn tất giai trừ diệt, ngũ cốc phong đăng, vạn tánh an lạc.
(Việt dịch: Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo: Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn tụng trì Đại Bi Tâm Đà la ni thần chú. Hành trì như thế luôn 7 ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui.) Lược giảng:
“Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo”: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi nói xong đoạn kinh văn trƣớc, bèn nói với vị Tôn giả Khánh Hỷ, cũng là Tôn giả A Nan, ngài là vị tổ thứ hai của Ấn Độ. Đức Phật nói “Này A Nan, khi trong một nước”: nếu có quốc gia nào, “có tai nạn nổi lên”: thế nào gọi là ‗tai‘? Thế nào gọi là ‗nạn‘? Tai có tam tai, nạn có bát nạn. Tam tai: chính là thủy tai, hỏa tai, phong tai. Bát nạn, không lẽ chỉ có tám nạn? Không phải, có rất nhiều rất nhiều nạn. Hễ điều gì không dễ vƣợt qua đƣợc đều gọi là nạn, nạn chính là vào thời gian ấy rất khó vƣợt qua, cho nên có lúc kết hợp với chữ ‗kiếp‘, gọi là kiếp nạn. Kiếp là tiếng Phạn, vốn gọi là kiếpba. Dịch sang tiếng Trung Hoa là chữ kiếp, chữ „khứ‟ thêm một nét „lưỡi‟ của lƣỡi đao là thành chữ „nhận‟, nghĩa là kiếp nạn thì không dễ thì không dễ dàng gì vƣợt qua đƣợc, cũng giống nhƣ đi qua lƣỡi đao, quý vị muốn đi qua thì phải đối mặt với cái chết, cho nên gọi là kiếp nạn. Kỳ thực, giống nhƣ nạn nƣớc, nạn gió, nạn lửa, hoặc là động đất, hoặc là mƣa đá, hoặc là lũ lụt, đây đều là tai nạn; hoặc ôn dịch hoành hành, đây đều gọi là tai nạn.
Vào lúc xảy ra tai nạn, “vị quốc vương ở xứ ấy ”: quốc vƣơng trong quốc gia này, “phải biết dùng chánh pháp trị dân ”: nếu ông ấy thực hành Phật pháp, hoặc là ông thọ năm giới, tu thập thiện, hành Bồ tát đạo, “độ lượng khoan dung”: ‗khoan‘ nghĩa là mở rộng; ‗dung‘ nghĩa là thả ra. Không giam ngƣời dân vào lao ngục gọi là ‗khoan dung‘; không nhốt thú vật vào chuồng, đây cũng gọi là ‗khoan dung‘. “Không làm oan uổng trăm họ”: không làm oan uổng, tức là không tùy tiện giết chúng sanh. Cũng tức là đoạn tâm giết hại, không giết chúng sanh. “tha kẻ tù phạm”: bất luận là lỗi lầm gì, đều tha thứ cho tội nhân, thả họ ra, không trách những ngƣời ngƣời có lỗi. “Hành trì luôn 7 ngày đêm”: trong thời gian bảy ngày bảy đêm, “giữ thân tâm tinh tấn”: thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, thân tâm đều cùng tinh tấn. Tinh tấn làm gì? “tụng trì Đại Bi Tâm Đà la ni thần chú”: chính là ngày đêm đều niệm Chú Đại Bi, tu Pháp môn tổng trì Đà la ni.
Thì “trong cõi nước ấy”: vị quốc vƣơng ấy luôn nghĩ tƣởng đến điều gì? Chỉ nghĩ rằng khiến cho quốc gia, “tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan”: tất cả tai nạn, bất luận là nạn lớn hay nạn nhỏ, là tam tai bát nạn cũng vậy, là tam tai cửu nạn cũng vậy, là tam tai thập nạn cũng thế, tất cả đều đƣợc trừ diệt. ―Ngũ cốc phong thạnh”: ‗Ngũ cốc‘, chính là các loại đã trồng nhƣ: thóc, lúa, kê, lúa mì, các loại đậu, tất cả các loại ngũ cốc mà quốc gia ấy trồng. ‗Phong‘ nghĩa là là đầy đủ; ‗thạnh‘ nghĩa là thu hoạch rất tốt, ngũ cốc đƣợc đƣa ra chợ bán và cất trữ trong nhà. “dân chúng được an vui”: ‗dân chúng‘, tức là bá tánh thông thƣờng. Nếu không có tai họa thì dân chúng không có tai nạn, đều đƣợc an lạc. Ăn cũng ăn không no, mặc cũng mặc không ấm, nhƣ vậy đều chịu khổ, vậy thì không an lạc.
※ ※ ※
Lần này, trong số năm vị xuất gia – ba vị Tỳ kheo, hai vị Tỳ kheo-ni, về mặt tên và thứ tự, đều là chuyện không thể nghĩ bàn. Năm ngƣời này, ngƣời xuất gia đầu tiên là Quả Tiền; ‗tiền‘ là trƣớc nhất cho nên khi thầy vừa đến quy y, liền đặt tên ―Quả Tiền‖ cho thầy. quả nhiên là khi xuất gia rồi có ngƣời muốn đến tranh với thầy ấy, chạy đến trƣớc thầy ấy, dù chạy đến trƣớc thầy, cũng không vƣợt qua đƣợc, bởi vì thầy ấy đã ở đằng trƣớc rồi.
Còn Quả Ninh, bởi vì trƣớc đây tâm của thầy không an ổn, không an ổn điều gì vậy? Bản thân thầy đã đấu tranh trong lòng rất lâu: ―Phải làm thế nào đây?‖. Cho nên khi quy y, tôi đặt tên cho thầy là Quả Ninh, phải an ninh, lại gọi là Hằng Tĩnh. Tên của Quả Tiền, gọi là Hằng Khiêm, khiêm tốn.
Ngƣời thứ ba là Quả Hiện, tôi cũng không hiểu vì sao lại đặt cho Quả Hiện cái tên này! Vốn là Quả Tiền xuất gia trƣớc và thọ giới Sa Di trƣớc Quả Hiện; nhƣng tôi lại không nói cho rõ ràng mà chính chú ấy cũng không hiểu rõ cho lắm.
Lần này đi thọ giới, Quả Hiện không đƣợc đi, vì chú ấy đã nổi nóng và tự cầm dao chặt đứt một ngón tay của mình; thiếu mất một ngón tay thì đành phải thọ giới trễ một chút vậy. Lúc chặt ngón tay, chú ấy không cho tôi biết; nếu chú thƣa với tôi trƣớc, hỏi tôi một tiếng, rằng: ―Con muốn chặt ngón tay có đƣợc không?‖, thì có lẽ đã không bị tụt lại đằng sau nhƣ thế. Chú ấy đã không nói rõ với tôi, mà âm thầm chạy tới nhà bếp tự chặt đứt một ngón tay, và làm cho tấm thớt cắt rau cải bị ô uế. Tôi nói là cũng còn dùng đƣợc, cho nên không cần phải thay tấm thớt mới! Ây da, nhƣ thế vẫn dùng tấm thớt đó để cắt rau cải thì ăn vào có thể bị thành tinh không? Cũng chẳng hề chi, thì thành yêu tinh thôi! Quả Hiện vì thế mà phải nằm bệnh viện mất mấy hôm, nay thì Quả Tiền đã đi Đài Loan trƣớc rồi!
Trong số các Tỳ Khƣu Ni, Quả Dật xin xuất gia trƣớc cho nên sẽ đứng trƣớc Quả Tu; Quả Tu thì xin xuất gia sau, cho nên xếp theo thứ tự thọ giới mà tính thì cô ta đứng hàng thứ tƣ trong số các Tỳ Khƣu và Tỳ Khƣu Ni.
Lần này đến Đài Loan, các con nhất định phải giữ gìn đạo phong của Phật Giáo Giảng Đƣờng chúng ta! Đừng để khi đến Đài Loan, nhìn thấy mọi ngƣời đều ăn hai bữa, ba bữa, sáng thức dậy cũng ăn, buổi tối cũng ăn, buổi trƣa lại ăn, chúng ta cũng ăn một chút. Các con ăn, cũng đƣợc, nhƣng đối với Phật giáo nƣớc Mỹ, không phải là tốt cho lắm. Nếu con nhất định nói là: ―Con muốn đi ngƣợc với Phật giáo nƣớc Mỹ, không làm theo điều đó!‖. Vậy thì có thể tùy tiện. Muốn ăn hai bữa, ba bữa đều đƣợc; bởi vì con đến đó, chịu ảnh hƣởng bên đó, không nghe giáo hóa của sƣ phụ, không học pháp của sƣ phụ, mà học những pháp bên Đài Loan rồi! Thầy cũng không miễn cƣỡng các con, ―Sƣ phụ dẫn vào cửa, tu hành tại cá nhân‖. Hiện nay, vào trong cánh cửa Phật giáo rồi, có thể nói là độ các con vào trong cửa rồi. Khi mê, thầy đƣa các con vào trong cửa; hiện nay các con khai ngộ rồi, tự các con làm thế nào, do chính các con (quyết định). Sau khi con thọ giới, các con thích nhƣ thế nào thì đó là việc của bản thân các con.
Thứ tự thầy sắp xếp cho các con hôm nay, đó là một cảnh giới không thể nghĩ bàn trong âm thầm. Thầy đặt tên cho các con, không chỉ các con, mà đặt tên cho bất kỳ ngƣời nào cũng có nhân duyên của nó. Việc này, tuy không phải là quá lớn, nhƣng cũng không hề nhỏ, bởi vì có liên hệ về nhân trƣớc quả sau.
Khi Đại sƣ Liên Trì thọ giới, chính ngài đến trƣớc đức Phật mà lạy Phật, niệm Phật, bái sám, đƣợc đức Phật đến xoa đảnh truyền giới cho ngài, đồng thời Đại sƣ Trí Giả cũng đến truyền giới cho ngài. Vì vậy Đại sƣ Liên Trì không đến Đài Loan, cũng không đến Hong Kong cũng thọ đƣợc giới Cụ túc.
Hiện nay, nếu Quả Hiện thành tâm một chút, có thể siêng năng lạy Phật, niệm Phật, thì không chừng sẽ đắc đƣợc Cụ Túc Giới ngay tại đây; tuy nhiên, chú ấy có đắc giới hay không thì tôi đều biết rõ. Nếu đắc giới, thì càng tốt; nếu chƣa đắc giới, thì cứ từ từ lại càng tốt hơn nữa. Đắc hay không đắc thì đều nên từ từ mà thỉnh cầu, thế nào cũng đƣợc Bồ Tát đến gia trì cho! Quý vị đến Đài Loan thọ giới, cần ghi nhớ là phải dũng mãnh tinh tấn, chớ nên chẳng có chút tinh tấn gì cả. Nếu Quả Hiện, ngƣời ở lại, không đƣợc đi Đài Loan, thật sự ―hiện thân thuyết pháp,‖ đắc đƣợc giới rồi; còn quý vị sang tận Đài Loan mà lại không đắc giới, thì quý vị thật là uổng công phí sức vậy!
Hán văn: Hựu nhƣợc vi ƣ tha quốc oán địch, sác lai xâm nhiễu, bách tánh bất an, đại thần mƣu phản, dịch khí lƣu hành, thủy hạn bất điều, nhật nguyệt thất độ, nhƣ thị chủng chủng tai nạn khởi thời, đƣơng tạo Thiên Nhãn Đại Bi Tâm tƣợng, diện hƣớng nam phƣơng, dĩ chủng chủng hƣơng hoa, tràng phan bảo cái, hoặc bách vị ẩm thực, chí tâm cúng dƣờng. Kỳ vƣơng hựu năng thất nhật thất dạ, thân tâm tinh tấn, tụng trì nhƣ thị đà la ni thần diệu chƣơng cú.
(Việt dịch: Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn. Dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản. Bệnh dịch lưu hành, mưa nắng không điều hòa hoặc nhựt, nguyệt thất độ v.v… Khi các tai họa như thế xảy ra, muốn diệt các thứ tai họa ấy. Vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây. Sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà chí tâm cúng dường. Rồi trong 7 ngày đêm thân tâm tinh tấn, đọc tụnɡ Đại Bi Đà La Ni chươnɡ cú thần diệu.) Lược giảng:
Sức mạnh của Chú Đại Bi là không thể nghĩ bàn, chỗ kỳ diệu của Chú Đại Bi cũng không thể nghĩ bàn, cảm ứng của Chú Đại Bi cũng không thể nghĩ bàn.
Đức Phật nói tiếp: “Lại nếu bị nước thù nghịch khác” ‗Hựu‘ tức là lại thêm nữa; lại có một lực lƣợng khác, lực lƣợng nào? Không phải của nƣớc mình mà là của nƣớc oán địch khác. ‗Oán địch‘ có nghĩa là có cừu oán, thù nghịch. “Rất nhiều lần xâm lấn, quấy nhiễu” Tiếng Trung Hoa, chữ ‗số‘ (數) vốn đƣợc đọc là ‗shù‘ (音樹), nhƣng ở đây thì đọc là ‗shuò‘ (音朔) và có nghĩa là rất nhiều. Đây là chữ trong Luận Ngữ, nằm ở câu ‗sự quân sác, tƣ nhục hỹ!‘ Cho nên, quý vị nào đã từng đọc sách Luận Ngữ, thì sẽ biết đây là chữ ‗sác‘ (âm shuò); nếu chƣa hề xem qua sách Luận Ngữ, thì quý vị sẽ cho đây là chữ ‗số‘ (âm shù). Thật ra, đọc là ‗số‘ thì cũng đƣợc, vì cũng có nghĩa là ‗nhiều‘; thế nhƣng, đọc là ‗sác‘ thì hàm ý là ―rất nhiều lần‖-rất nhiều lần bị nƣớc thù nghịch khác xâm lấn, nhiễu loạn. Thế nào gọi là ‗học thức‘? Nhƣ trƣờng hợp chữ ‗sác‘ này chẳng hạn, nếu là ngƣời không có học thức thì sẽ đọc là ‗số‘; nhƣng nếu quý vị có học thức thật sự thì cho dù không đƣợc ai chỉ bảo, quý vị vẫn biết và đọc là ‗sác‘. Có ngƣời sẽ thắc mắc: ‗Thế chẳng hay Thầy có học thức chân thật chăng?‘ Tôi không có học thức chân thật, vẫn còn là thứ học thức ‗giả thật‘ mà thôi! ―Vậy thì tại sao Thầy lại biết mà đọc nhƣ thế?‖ Chẳng qua là có nhiều ngƣời đọc nhƣ thế, cho nên tôi cũng cứ thế mà đọc theo thôi!
“Dân tình rối loạn không yên”: dân chúng đều kinh sợ bất an, vì sao vậy? Bởi thƣờng xuyên có kẻ cƣớp đến cƣớp bóc; “Quan đại thần mưu phản”: ‗đại thần‘ là chức vị quan trọng nhƣ Thừa tƣớng; ‗mƣu phản‘ là có ngƣời tạo phản, thành ra ‗có lý để tạo phản‘. “Bệnh dịch lưu hành”: ‗dịch‘ tức là ôn dịch. Bệnh ôn dịch, hoặc là bệnh tả, hoặc các bệnh truyền nhiễm khác, đều do loài ‗dịch quỷ‘ tác oai tác quái. Loài ‗dịch quỷ‘ này đem vi khuẩn mầm bệnh hại ngƣời gieo rắc khắp nơi, ngƣời nào hít phải khí độc do chúng tán rải thì liền sanh bệnh, có thể chết.
“Mưa nắng không điều hòa”: vì sao mƣa không điều hòa vậy? Bởi vì lẽ ra mƣa một tháng, nhƣng lại mƣa liên tục ba tháng, làm chìm chết hoa màu, bởi vì nƣớc quá nhiều! Tôi nghĩ các quý vị có thể hiểu đƣợc. Thế nào gọi là hạn? Lẽ ra là trời sẽ mƣa nhƣng lại không mƣa và cả ngày trời cũng không mƣa.
Hiện nay, Trƣơng Quả Tuệ và Đàm Quả Thức đều đang ở đây, tôi nói về may mắn của mình, hai ngƣời làm chứng cho tôi, để mọi ngƣời tin tôi, đây không phải phải là nói năng khoác lác. Ở Hồng Kông thi thoảng hay bị hạn hán, có khi một năm, nửa năm cũng không mƣa. Tây Lạc Viên của tôi, vốn dĩ không có nƣớc, bởi vì xây dựng Tây Lạc Viên nên nơi đó có nƣớc, nƣớc từ khe núi chảy ra. Khi nƣớc vừa chảy ra mang lại cho tôi rất nhiều phiền phức. Phiền phức gì? Hàng xóm bên cạnh đều đến lấy nƣớc. Vừa thấy chỗ tôi có nƣớc, ngƣời này đến lấy, ngƣời kia cũng đến lấy, thùng nƣớc vừa đặt xuống đã hơn 20 ngƣời túc trực sẵn để lấy nƣớc. Về sau tôi hết cách, dùng lƣới thép chặn lại; chặn lại rồi, thì không còn ngƣời đến lấy nƣớc nữa! Có phải vậy không Trƣơng Quả Tuệ?
Vào lúc đó, sáu tháng không có mƣa, nƣớc của tôi cũng không có! Nƣớc trên núi chảy xuống rất ít, đồng thời có mùi kim loại rất nặng, quả thật là không thể dùng. Vào lúc ấy, quý vị có nhớ Lƣu Quả Quyên không?
Lúc đó tôi ra lệnh cho Lƣu Quả Quyên, nói rằng: ―Trong vòng ba ngày, cô phải cầu mƣa xuống cho tôi! Hằng ngày cô phải niệm Phật, nếu nhƣ cô không cầu đƣợc mƣa thì sau này đừng đến gặp tôi nữa‖. Tôi nói với cô ấy nhƣ vậy. Lƣu Quả Quyên liền hoang mang, cô ấy sợ nhất là không đƣợc gặp sƣ phụ; sợ không gặp cho nên có thể làm bất cứ điều gì, bình thƣờng thỉnh thoảng cô ấy hay đến gặp tôi. Ngƣời đệ tử nhiều năm này hoang mang rồi, vì vậy ngày nào cô cũng cầm một xâu chuỗi niệm ở đó, niệm Chú Đại Bi, khoảng ba ngày, cả cơm cũng quên ăn, cô ấy sợ không cầu đƣợc mƣa.
Trong thời gian hơn nửa năm ấy, tất cả các Phật Đƣờng, chùa chiền, am miếu, trai đƣờng, Đông Phổ Đà, Tây Phổ Đà… ở Hƣơng Cảng đều cầu mƣa, song cầu xin ròng rã suốt mấy tháng trời mà trời vẫn chƣa đổ mƣa. Ở chỗ tôi, sau khi tôi kỳ hạn cho Quả Quyên nếu nội trong ba ngày mà cầu không đƣợc mƣa thì đừng đến gặp mặt tôi, thì chỉ khoảng hai ngày rƣỡi sau là trời bắt đầu đổ mƣa. Trời vừa đổ mƣa thì tất cả các Phật Đƣờng đều rầm rộ đăng báo ‗quảng cáo‘ nơi này thì nói rằng: ‗Cơn mƣa này là nhờ chúng tôi cầu nguyện mà đƣợc đấy!‘; nơi khác lại đƣa tin: ‗Cơn mƣa này là do Phật Đƣờng chúng tôi cầu xin đấy!‘ Ái chà! Tất cả các Phật Đƣờng đều có công lao, duy chỉ có Chùa Tây Lạc Viên là không báo công cũng chẳng báo đức; và mƣa thì cứ thế mà trút xuống!
Vì sao có thể nhƣ vậy đƣợc? Vì sao tôi giới hạn cho cô ta ba ngày để cầu mƣa xuống vậy? Thật ra, tôi nói cho quý vị biết, không cần ba ngày, ngày hôm nào tôi bảo mƣa xuống thì sẽ có mƣa! Chẳng qua là tôi bảo vị đệ tử lâu năm này niệm Phật nhiều chút, tích công đức nhiều chút, để cô ấy vì mọi ngƣời mà cầu mƣa, cho nên giao bài tập cho cô ấy. Tôi biết không cần tới ba ngày, chỉ một ngày tôi gọi mƣa xuống, thì lập tức có mƣa. Vì sao vậy? Bởi vì tôi có đệ tử là mƣời con rồng; mƣời con rồng ấy, tôi nói con rồng nào muốn mƣa thì sẽ cho tôi chút mƣa. Giống nhƣ sáu đệ tử xuất gia của tôi bên Mỹ, tôi kêu họ làm chút gì đó thì họ đều phải làm; nếu không làm thì không cần đệ tử đó nữa, tôi không miễn cƣờng. Giống nhƣ chú tiểu Sa di này, chặt đi một ngón tay, đuổi chú ra ngoài. Vài tháng sau, bây giờ chú muốn trở về. Tôi vừa nghĩ thấy nhƣ thế không đƣợc! Mặc kệ là chú nghe lời hay không nghe lời, đợi một thời gian rồi tính tiếp! Vốn là nếu cho chú trở về thì có rất nhiều ngƣời phản đối, không muốn cho chú trở về; nhƣng tôi nói không gọi chú trở về thì tự nhiên chú tự động trở về.
Tôi lại gặp phiền toái rồi! phiền toái gì? Có một ngƣời đến gặp tôi và nói và nói: “Ngài nói rằng sẽ không có động đất ở San Francisco, vậy sẽ không có động đất sao? Điều ngài nói đã không thành sự thật!”. Không tệ! Vào một ngày đầu tiên của tháng Ba năm ngoái, một ngƣời nào đó ở San Francisco nói rằng có một trận động đất vào tháng Tƣ và tháng Năm, và tôi đã nói: “Sẽ không xảy ra động đất, những việc này chỉ nhƣ một hạt bụi. Tôi còn ở San Francisco một ngày, thì tôi không cho phép có động đất xảy ra! Khi tôi rời đi, tôi không quan tâm đến nó”. Khi nói đến động đất, tôi nói thế này: ‗Nếu một trận động đất lớn, thì nó sẽ thành một trận động đất nhỏ, một trận động đất nhỏ tôi nói không có gì hết‘.
Năm ngoái, một số ngƣời đã tin tôi và yêu cầu tôi không rời San Francisco. Vì nếu tôi rời San Francisco, San Francisco có thể chìm xuống biển, vì vậy, tôi không thể rời San Francisco, nếu tôi rời đi, San Francisco sẽ không có biện pháp nào để phòng ngừa. Tôi nói: ―Đừng sợ, San Francisco sẽ không có động đất đâu.‖ Có ngƣời nói chắc chắn là tôi sẽ sai, bởi vì nó đã đƣợc tính toán một cách khoa học, động đất chắc chắn sẽ xảy ra. Nhƣng tôi vẫn tuyên bố chắc chắn rằng: ―Tôi không cho phép động đất xảy ra, đừng lo lắng‖.
Tuy nhiên, một số ngƣời giàu có đã không tin điều đó và rời khỏi San Francisco. Có một số việc quý vị không nên sợ, không sợ chính là biện pháp. Sau đó có một trận động đất, và trận động đất này sẽ rất nhỏ. Tại sao? Vì có hộ pháp giúp đỡ, tôi biết thiên long bát bộ, hộ pháp thiện thần, nhất định ủng hộ, vì cái gì? Hộ pháp thiên long bát bộ luôn ủng hộ chúng sanh.
“Nhật nguyệt thất độ”: ‗Nhật‘ là mặt trời, tức là ban ngày; ‗nguyệt‘ là mặt trăng, tức là ban đêm; ‗thất độ‘ là thất thƣờng, mất cân bằng, có lúc thì mặt trời chiếu gay gắt, có lúc thì mặt trăng tròn dịu mát. Hiện tƣợng này không phải là gia tăng dần dần từng ngày một, hoặc là mỗi ngày mỗi giảm thiểu từ từ; mà là khoảng cách đột nhiên kéo dài hoặc đột nhiên thu ngắn lại. Đây gọi là ‗nhật nguyệt thất độ‘, là không cân bằng; và chính là biểu hiện của một loại thiên tai.
“Khi các tai họa như thế xảy ra, muốn diệt các họa ấy”: thật ra, khi các loại tai họa nhƣ thế này xảy ra, “tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi”: quý vị nên dựng tƣợng Quán Thế Âm Bồ Tát, “để day mặt về phương Tây”: vì Phật A Di Đà ở phƣơng Tây, mà đức Phật A Di Đà là thầy của Bồ tát Quán Thế Âm, cho nên đệ tử cung kính hƣớng về thầy.
Nhƣ sáu ngƣời đệ tử của tôi, khi nghe có ngƣời khen ngợi sƣ phụ của họ, rằng: ―Thật là bất khả tƣ nghì! Thầy của quý vị quả đúng là có thần thông! Ông ta nói ra điều gì cũng linh nghiệm cả. Chà! Nói có mƣa là có mƣa xuống ngay!‖; thì họ hoan hỷ lắm. Thế nhƣng, nếu có ngƣời nhục mạ sƣ phụ của họ ngay trƣớc mặt họ, nhƣ nói rằng: ―Ông Sƣ phụ của quý vị cái gì cũng không hiểu cả, quý vị theo ông ta thì học đƣợc cái gì chứ? Quý vị càng học thì càng ngu si hơn, càng học lại càng mê muội thêm mà thôi!‖; thì có thể họ liền tức tối đáp trả: ―Mấy ngƣời dám ăn nói nhƣ thế à? Tôi phải đánh chết mấy ngƣời!‖ Và, nhƣ thế là họ sắp phạm giới rồi, có phải vậy không? Thế nhƣng, họ không nên làm nhƣ thế. Họ cần phải nhịn nhục. Họ phải biết nhẫn nại!
“Sắm các thứ hương, hoa”: mua sắm các loại hƣơng thơm, các loại hoa. “tràng phan bảo cái”: sử dụng tràng phan và bảo cái để cúng dƣờng, “hoặc trăm thức ăn uống”: có trăm vị thức ăn, thức uống để cúng dƣờng, “mà chí tâm cúng dường”: quý vị chí tâm cúng dƣờng ai? Đó là cúng dƣờng Quán Thế Âm Bồ Tát.
“Rồi trong bảy ngày đêm”: vị Quốc vƣơng này lại có thể bảy ngày, bảy đêm, “thân tâm tinh tấn”: thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn. Tinh tấn để làm gì? “đọc tụnɡ Đại Bi Đà La Ni chươnɡ cú thần diệu”: đọc tụng chƣơng cú thần diệu của chú Đại Bi Đà La Ni.
Hán văn: Ngoại quốc oán địch, tức tự hàng phục, các hoàn chính trị, bất tƣơng ƣu não, quốc độ tƣơng thông, từ tâm tƣơng hƣớng, vƣơng tử bất quan, giai hành trung xích, phi hậu thải nữ, hiếu kính hƣớng vƣơng, chƣ long quỷ thần, ủng hộ kỳ quốc, vũ. Vũ trạch thuận thời, quả thực phong nhiêu, nhân thị hoan lạc.
(Việt dịch: Thì ngoại bang đến đánh tự nhiên quy hànɡ, chánh trị yên ổn, không còn làm hại, lân bɑnɡ hòɑ hảo, thươnɡ mến lẫn nhɑu, tronɡ triều từ vươnɡ tử cho đến trăm quɑn đều hết dạ trunɡ thành, nơi cunɡ vi, hoàng hậu, phi tần khởi lònɡ hiếu kính đối với vuɑ, các thiên, lonɡ, quỷ thần đều ủnɡ hộ tronɡ nước khiến cho mưɑ ɡió thuận hòɑ, hoɑ quả phong nhiêu, nhân dân vui vẻ.) Lược giảng:
“Ngoại bang đến đánh”: giặc của nƣớc ngoài đến xâm lƣợc, “tự nhiên quy hàng, chánh trị yên ổn”: các giặc nƣớc ngoài đến chiếm đánh đều tự nhiên quy hàng, hàng phục, quân giặc đó đều tự trở về đất nƣớc của mình, hoặc có chiếm đất đai thì đều trả lại, “không còn làm hại”: không còn nhiễu hại đất nƣớc quý vị nữa, “lân bang hòa hảo”: hai nƣớc đều giao hảo, đều làm bạn tốt, “thương mến lẫn nhau”: hai nƣớc thân thiện với nhau và giúp đỡ lẫn nhau, trở thành bạn bè.
“Tronɡ triều từ vươnɡ tử cho đến trăm quɑn”: các hoàng tử và các quan chức; “đều hết dạ trunɡ thành”: hết lòng trung thành, một lòng một dạ thờ vua, không lừa dối. “Hoàng hậu, phi tần”: hoàng hậu và tất cả các phi tần, mỹ nữ trong cung vua; “khởi lònɡ hiếu kính đối với vuɑ”: đối với nhà vua thì đều một lòng hiếu kính.
“Các thiên long, quỷ thần”: Thiên long, tôi nói với mọi ngƣời tôi có mƣời đệ tử là rồng quy y tôi, quý vị có tin không? Có ngƣời nghĩ rồng là không có thật, rồng cũng là một trong những hộ pháp đấy! Quỷ thì có quỷ xấu và quỷ tốt. Thế nào là quỷ tốt? Quý vị xem các vị quỷ vƣơng ở trong kinh Địa Tạng đó, Chủ Tài quỷ vƣơng, Chủ Mạng quỷ vƣơng, Đạm Tinh Khí quỷ vƣơng, Nhiếp Độc quỷ vƣơng, Đây đều là các vị quỷ tốt. Thần cũng có thiện thần và ác thần. Thần thì cũng giống nhƣ quỷ, nhƣng thần thông của chúng lớn hơn. “Đều ủng hộ trong nước”: những thiên long quỷ thân đều đến ủng hộ đất nƣớc có ngƣời trì chú.
“Mưa gió hòa thuận”: sao gọi là mƣa gió hòa thuận? Chính là khi trời mƣa, thì mƣa rơi xuống, khi không có mƣa thì trời nắng, thời tiết điều hòa. “Hoa quả phong nhiêu”: ‗quả‘ là chỉ tất cả các loại quả, ‗thực‘ cũng có thể là chỉ tất cả các loại quả, cũng có thể hiểu là ngũ cốc; ‗phong nhiêu‘ chính là rất nhiều; năm ngoái thu năm trăm cân, nhƣng năm nay đã tăng lên hai ngàn cân, tăng thêm gấp ba lần, đây chính là phong nhiêu. Quý vị hiểu không? Hiểu rồi, vậy tôi không giảng nữa. “Nhân dân vui vẻ”: tất cả quý vị đều biết tiếng Trung Quốc, vì vậy khi tôi nói đến đây, tất cả các quý vị đều cƣời.
Hán văn: Hựu nhƣợc nội gia ngộ đại ác bệnh, bách quái cạnh khởi, quỷ thần tà ma hao loạn kỳ gia, ác nhân hoàng tạo khẩu thiệt, dĩ tƣơng mƣu hại, chí gia đại tiểu nội ngoại bất giả, thƣờng hƣớng thiên nhãn đại bi tƣợng tiền, thiết kỳ đàn tràng, chí tâm niệm Quán Thế Âm bồ tát, giảng thử đà la ni, mãn kỳ thiên biến, nhƣ thƣợng ác sự, tất giai tiêu diệt, vĩnh đắc an ổn.
(Việt dịch: Lại nếu tronɡ nhà có nhữnɡ tɑi nạn như: quyến thuộc có bệnh hiểm nghèo, trăm quái nổi dậy, quỷ thần tà ma quấy phá, nɡười ác ɡieo tiếnɡ thị phi, hoặc vu khốnɡ để hãm hại, cho đến tronɡ nɡoài lớn nhỏ chẳnɡ hòɑ thuận nhɑu, tiền củɑ hɑo mòn, ɡiɑ đình rối loạn. Muốn diệt nhữnɡ tɑi nạn ấy, ɡiɑ chủ phải thiết lập đàn trànɡ, thường hướnɡ về tượnɡ Thiên Nhãn Đại Bi, chí tâm niệm dɑnh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụnɡ đà lɑ ni này đủ nɡàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, ɡiɑ đình được vĩnh viễn ɑn vui.) Lược giảng:
“Tronɡ nhà có nhữnɡ tɑi nạn như quyến thuộc có bệnh hiểm nghèo”: trong nhà chính là trong gia đình, trong phòng có ngƣời bị bệnh nặng, không thầy thuốc nào chữa đƣợc; “trăm quái nổi dậy, quỷ thần tà ma quấy phá”: tại sao nhƣ vậy? Vì trong nhà có quỷ thần, ma quái nhiễu loạn, quấy phá. “Người ác gieo tiếng thị phi”: có thể có nhiều ngƣời xấu bịa đặt chuyện thị phi này nọ, chuyện có nói không, chuyện không nói có, toàn là ―không gió mà dậy sóng‖, tạo ra điều thất thiệt; “vu khống để hãm hại”: hoặc muốn kích động bất hòa, vu khống hại quý vị; “cho đến tronɡ nɡoài lớn nhỏ chẳnɡ hòɑ thuận nhɑu”: cho đến mọi ngƣời lớn nhỏ trong nhà đều không hòa thuận với nhau, bạn bè thân thích bên ngoài cũng bất hòa, trong ngoài đều bất hòa. Lúc này “muốn diệt những nạn đó”: muốn những nạn đó đƣợc tiêu trừ thì phải làm sao? “thường hướnɡ về tượnɡ Thiên Nhãn Đại Bi”: quý vị nên thƣờng hƣớng đến trƣớc tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. “Thiết lập đàn tràng”: thiết lập đàn tràng, quý vị nên ở trong một đàn tràng, “chí tâm niệm dɑnh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát” chí tâm thành khẩn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, và “tụnɡ đà la ni này đủ nɡàn biến” quý vị niệm chú đại bi đủ một ngàn biến, “thì tất cả việc xấu như trên”: tất cả những điều ác nói ở trên đều đƣợc tiêu diệt, không còn nữa; “ɡiɑ đình được vĩnh viễn ɑn vui”: Sẽ không bao giờ có chuyện bất an xảy ra nữa, gia đình quý vị sẽ luôn bình an vô sự.
Hán văn: A nan bạch Phật ngôn. Thế tôn, Thử chú danh hà, vân hà thọ trì, Phật cáo A nan, nhƣ thị thần Chú, hữu chủng chủng danh, nhất danh Quảng Đại Viên Mãn, nhất danh Vô Ngại Đại Bi, nhất danh Cứu Khổ Đà La Ni, nhất danh Diên Thọ Đà La Ni, nhất danh Diệt Ác Thú Đà La Ni, nhất danh Phá Ác Nghiệp Chƣớng Đà La Ni, nhất danh Mãn Nguyện Đà La Ni, nhất danh Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, nhất danh Tốc Siêu Thánh Địa Đà La Ni, nhƣ thị thọ trì.
(Việt dịch: Ngài A Nan lại bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là gì? Con nên thọ trì như thế nào?
Đức Phật nói với A Nan:
Thần chú này có nhiều tên khác nhau như sau:
Quảng đại viên mãn đà la ni; Vô ngại Đại Bi đà la ni; Cứu khổ đà la ni; Diên thọ Đà la ni; Diệt ác thú đà la ni;Phá ác nghiệp chướng đà la ni; Mãn nguyện đà la ni; Tùy tâm tự tại đà la ni; Tốc siêu thánh địa đà la ni. Ông nên y như thế mà thọ trì.) Lược giảng:
“Ngài A Nan lại bạch Phật rằng”: lúc đó, ngài A Nan lại bạch Phật; “Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là gì?”: Bạch Đức Thế Tôn, thần chú này có tên là gì? Quý vị nghĩ xem, ngài A nan nghe Đức Quán Thế Âm Bồ tát giảng lâu nhƣ vậy, mà còn không biết danh tự của thần chú này? “Con nên thọ trì như thế nào?”: nay đƣợc thần chú rồi phải giữ gìn, thọ trì và trì tụng thần chú này nhƣ thế nào? “Đức Phật nói với A Nan”: Đức Phật nói với ngài A Nan, “Thần chú này có nhiều tên khác nhau như sau”: Đức Phật bảo ngài A nan thần chú này không chỉ có một tên, mà có nhiều tên. Giống nhƣ Steve, còn có tên Quả Chiêm. Hay nhƣ Quả Ninh còn có tên là Hằng Tĩnh, những cái tên rất hay. Thần chú cũng nhƣ vậy, có rất nhiều tên gọi khác nhau.
“Quảng đại viên mãn đà la ni”: thần chú này vô cùng rộng lớn và tròn đầy.
“Vô ngại Đại Bi đà la ni”: vô ngại Đại bi là không có chỗ chƣớng ngại mà lại đầy đủ đại bi
“Cứu khổ đà la ni”: cứu khổ đà la ni là câu thần này chú có năng lực cứu bạt tất cả những bệnh khổ.
“Diên thọ đà la ni”: khi có ngƣời sắp chết, quý vị trì tụng ―Chú Đại Bi‖ cho ngƣời đó! Thì họ đƣợc sống trƣờng thọ cho nên chú này gọi là chú trƣờng thọ.
“Diệt ác thú đà la ni”: diệt ác thú thì tiêu trừ các cõi ác thú địa ngục,ác quỷ, súc sanh, a tu la, bốn ác thú đều tiêu diệt.
“Phá ác nghiệp chướng đà la ni”: chú này có công năng phá trừ tất cả các nghiệp chƣớng xấu ác. Thế nhƣng, quý vị chớ nên cho rằng bởi Chú Đại Bi là Đà La Ni có thể phá trừ các nghiệp ác, bèn niệm chú này rồi tha hồ tạo ác tác nghiệp, thì cũng đƣợc phá trừ: ―Cho dù mình có gây tạo một chút nghiệp chƣớng đi chăng nữa thì đã có Chú Đại Bi sẵn sàng giải trừ cho mình. A! Nếu mình mặc sức gây tạo, thì Chú Đại Bi cũng sẽ tận lực phá trừ, giống nhƣ ‗phá trận‘ vậy.‖ Chẳng phải nhƣ thế đâu! Những nghiệp chƣớng xấu ác trƣớc kia của quý vị thì Chú Đại Bi có thể phá giải đƣợc; song nay quý vị đã biết rõ rằng nghiệp chƣớng này đích thị là nghiệp chƣớng xấu ác, thì lẽ ra quý vị không nên tạo tác nữa mới phải! Nếu nay quý vị còn tiếp tục gây thêm nghiệp chƣớng xấu ác nữa, thì đừng nói là một cái Đà La Ni, cho dù một vạn cái Đà La Ni cũng không thể nào phá nổi nghiệp chƣớng xấu ác ―biết rõ mà vẫn cố phạm‖ của quý vị đƣợc! Cho nên, quý vị cần phải hiểu rõ điểm này.
“Mãn nguyện đà la ni”: còn có tên gọi khác là viên mãn, mọi mong cầu đều đƣợc đƣợc thành tựu. Quý vị nói ‗Tôi muốn phát tài‘, quý vị niệm chú Đại Bi thì sẽ phát tài, sẽ giàu có. Quý vị lại nói: ‗Tôi muốn trở thành quan chức‘, thần chú cũng sẽ đáp ứng mong muốn của quý vị. Quý vị lại nói: ‗Tôi có đủ thứ, tôi muốn đánh bạc với Renault!‘. ‗Tôi có thể trì tụng ―Chú Đại Bi‖ đƣợc không? Tôi sẽ trúng xổ số chứ, viết mƣời thì trúng chín, hoặc mƣời lô. Liệu có đƣợc không?‘ Điều này thì tôi không biết, tôi không đảm bảo điều này (I don’t ensure this). Nếu quý vị cầu chính nghĩa thì tôi chắc chắn thành tựu, nếu quý vị cầu điều bất thiện thì sẽ không thành tựu.
“Tùy tâm tự tại đà la ni”: thần chú còn có tên gọi là Tùy tâm tự tại; Tâm quý vị muốn gì thì sẽ đƣợc nhƣ mong muốn.
“Tốc siêu thánh địa đà la ni”: thần chú còn có tên là tốc siêu thánh địa; Có nghĩa ngƣời niệm thần chú này sẽ rất nhanh đến địa vị Thập địa Bồ tát.
“Ông nên y như thế mà thọ trì”: cũng nhƣ những danh hiệu trên, quý vị phải nƣơng theo danh hiệu để tu tập và giữ gìn. ※ ※ ※ Lần này quý vị đến Đài Loan để xin thọ giới, và một trong những ngƣời xin thọ giới đã hỏi tôi, đến đó có thể ăn thịt không? Quý vị đoán xem ngƣời đó là ai? Để tôi nói cho quý vị biết là ai đã hỏi tôi. Tôi nói có thể ăn thịt; Ăn thịt gì đây? Lần này phải ăn thịt Lăng Nghiêm. Một ngƣời khác lại hỏi tôi, thế có thể uống rƣợu không?Quý vị đừng hỏi là ai hỏi, chỉ những ngƣời thích uống rƣợu mới hỏi thôi: Tôi lại nói với anh ta có thể uống rƣợu; uống rƣợu gì? Uống rƣợu Đại Bi. Hãy dùng Đại Bi làm rƣợu, dùng Lăng Nghiêm làm thịt; Vậy còn cơm thì sao? Cơm đƣơng nhiên phải ăn; Ăn cơm gì? Ăn cơm Pháp Hoa; hãy lấy ―Kinh Pháp Hoa‖ và coi nhƣ cơm ăn.
Khi quý vị đang ở trên máy bay, đừng sợ, tôi nói cho quý vị biết, quý vị đã ăn no thịt Lăng Nghiêm, uống đủ rƣợu Đại Bi, ăn no cơm Pháp Hoa rồi thì không sợ gì hết. Chiếc máy bay đó nếu xảy ra chuyện,cũng không sao hết! Bởi vì đã có 3 bảo bối này bảo hộ, cộng thêm các vị 5 ngƣời, chính là bốn loại bảo bối. Vì vậy, đừng sợ! Nhƣng nếu quý vị thật sự hiểu điều mà tôi đã nói với quý vị, quý vị mới có thể uống rƣợu này, ăn thịt này và ăn cơm này; nếu quý vị không hiểu, thì cần xem lại!
Hán văn: A nan bạch Phật ngôn, Thế Tôn, thử bồ tát ma ha tát, danh tự hà đẳng, thiện năng tuyên thuyết nhƣ thị đà la ni. Phật ngôn, thử bồ tát danh Quán Thế Âm Tự Tại, diệc danh Nhiên Sách, diệc danh Thiên Quang Nhãn. Thiện nam tử, thử Quán Thế Âm bồ tát, bất khả tƣ nghì oai thần chi lực, dĩ ƣ quá khứ vô lƣợng kiếp trung, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Nhƣ Lai, đại đi nguyện lực, vị dục phát khởi nhất thiết bồ tát, an lạc thành thục chƣ chúng sanh cố, hiện tác bồ tát.
(Việt dịch: Ngài A Nan lại bạch Phật:
Bạch đức Thế Tôn! Vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát này, ngài ấy tên là gì, mà khéo tuyên thuyết môn Đà la ni như thế?
Đức Phật bảo:
Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.
Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn. Trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát.) Lược giảng:
“Ngài A Nan lại bạch Phật”: Ngài A nan chính là em họ của đức Phật, là con trai của vua Hộc Phạn. Là bậc đa văn đệ nhất trong hàng đệ tử của đức Phật. Sao gọi là đa văn? Chính là nghe và nhớ là đệ nhất. Ngài ấy vừa nghe qua nhớ mãi không quên. Tại sao ngài có trí nhớ siêu phàm nhƣ vậy? Bởi vì, ở quá khứ ngài đã tu định lực, tu rất nhiều, định lực đầy đủ, cho nên ngài không bị tán loạn. Vì không tán loạn nên khi nghe qua là ngài nhớ mãi không quên. Bởi thế, kinh điển đức Phật nói, ngài A nan nói lại không sót một chữ, toàn bộ kinh điển đều lƣu xuất ra. Ngài A nan và đức Phật tƣớng mạo gần nhƣ giống nhau, đức Phật có ba mƣơi hai tƣớng tốt, ngài A nan có ba mƣơi tƣớng tốt, tƣớng mạo của ngài đặc biệt viên mãn. Cái tên A nan là đƣợc phiên âm từ tiếng Phạn có nghĩa Khánh Hỷ (Vui mừng). Sao gọi là vui mừng? Vì khi ngài ra đời cũng chính là ngày đức Phật thành đạo; ngày Phật thành đạo, cũng là ngày ngài ra đời nên gọi là Khánh Hỷ.
A Nan bạch đức Phật: “Thế Tôn”: sao gọi là Thế Tôn? Thế là thế gian, tôn là tôn quý nhất của thế gian và xuất thế gian. “Vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát này”: vị Bồ tát này; “ngài ấy tên là gì, mà khéo tuyên thuyết môn Đà la ni như thế?”: ngài ấy tên là gì?, ‗tuyên thuyết‘ có nghĩa là tuyên truyền, thuật lại, nói ra; là thần chú Đại Bi Đà la Ni, đây là nói về Đà la ni ở phần trƣớc.
“Đức Phật bảo‖: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài A nan; “Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại”: tên của vị Bồ tát này là Quán Thế Âm Tự Tại. Quán chính là quán sát, cũng chính là dùng năng lực trí huệ quán sát. Quán sát cái gì? Quán sát âm thanh của thế giới. Âm thanh thế giới chính là cảnh giới sở quán. Cảnh giới sở quán của ngài là gì? Đó là các loại cảnh giới của tất cả chúng sanh; bao gồm chúng sanh thiện, chúng sanh ác, chúng sanh cang cƣờng, chúng sanh nhu nhƣợc, đủ loại hình sắc; tất cả âm thanh của chúng sanh là cảnh giới Bồ tát này quán sát. Dùng trí huệ năng quán, quán sát cảnh giới của tất cả chúng sanh. Vì sao Ngài ấy có thể có đƣợc năng lực nhƣ thế? Vì ngài có đại định, cho nên đƣợc tự tại, tự tại này là gì? Cũng chính là biểu hiện của định lực. Nếu không có định lực thì không tự tại, không tự tại thì bị tám loại gió (Bát Phong) xoay chuyển.
Tám loại gió này đã giảng qua rất nhiều lần, tôi không biết quý vị có nhớ hay không? Nhƣng hôm nay cũng có thể nói điều này một lần nữa. Tám loại gió chính là tám loại cảnh giới, ngƣời không có định lực khi gặp tám loại cảnh giới thì liền bị xoay chuyển, ngƣời có định lực thì không bị tám loại cảnh giới này xoay chuyển. Thời nhà Tống, Tô Đông Pha[1] và ngài thiền sƣ Phật Ấn[2] thƣờng đàm đạo cùng nhau. Mỗi ngày Tô Đông Pha đều ngồi thiền ở Giang Nam Yển, cảm thấy cảnh giới của mình rất cao; cảm giác mình ngồi trên hoa sen vàng nhƣ nhƣ bất động, liễu liễu thƣờng minh. Ồ! Loại cảnh giới này không có chỗ nào cao hơn! Liền viết ra bài thơ:
Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động Đoan tọa tử kim liên.
Nghĩa
Khấu đầu đảnh lễ Đấng Pháp Vương
Hào quang tỏa sáng chiếu đại thiên
Tám gió thổi, tâm không động
Nghiêm trang ngồi trên sen vàng
Khể thủ thiên trung thiên: ‗Khể thủ‘ chính là khấu đầu, ‗thiên trung thiên‘ là Phật; đức Phật là trời trên cõi trời, là thánh trên các bậc thánh, ở trên cảnh giới tối cao cũng không có ai cao hơn đức Phật, ở cảnh giới thấp nhất thì cũng không có ai thấp hơn đức Phật. Phật là tận hƣ không, biến khắp pháp giới, cho nên không có cao, không có thấp.
Tô Đông Pha hƣớng Phật đảnh lễ ‗hào quang chiếu đại thiên‘: ông ta cảm thấy ông ta phát ra ánh sáng hào quang, hào quang này chiếu khắp trời đất, chiếu đến tam thiên đại thiên thế giới. Sau đó, ông nói tám gió thổi không động: Tám gió là gì? Bây giờ, tôi sẽ giảng để quý vị rõ hơn một chút: Tám loại gió là ― khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, đƣợc, mất cũng có thuyết nói là phỉ báng, và danh tiếng‖.
Khen là gì? Chính là tán thán, khen ngợi. Ví dụ có ngƣời nói: ―Này anh, anh đúng thật là có tâm đại Bồ đề, anh thật sự là đại hộ pháp, công đức của anh rất lớn!‖. Bên trái có ngƣời tâng bốc, bên phải có ngƣời tâng bốc, không biết có tới bao nhiều ngƣời tâng bốc nữa, có thể tâng bốc đến trời, lên tới cả tầng trời tam thập tam, hay trời tứ thập! Lúc này quý vị cảm thấy: Ồ, mình không tệ! Nếu không, làm thế nào anh ấy có thể khen ngợi mình? Khi nghĩ nhƣ vậy thì lòng bay bổng theo mây, lên xuống hí hửng, con tim đập lộn nhịp không ngừng. Những ngƣời ngƣời ƣa tâng bốc nhƣ vậy, sau khi đƣợc khen ngợi thì nhƣ lâng lâng, nhƣ ở trên mây. Đây chính là quý vị đã bị cơn gió khen ngợi thổi bay.
Chê, chính là chê cƣời, mỉa mai, châm biếm. Mỉa mai là gì? Khi quý vị học Phật thì họ dùng điệu bộ chua ngoa để nói: ―Anh học Phật, ồ học Phật có gì tốt!‖. Anh ta nói với giọng dài nhƣ dao đâm vào tai, đó gọi là giễu cợt, mỉa mai. Nói chung, dù quý vị không muốn nghe nhƣng họ vẫn nói, dù quý vị có vểnh tai hay bịt lỗ tai thì họ vẫn nói vậy. Điều đó làm quý vị mất bình tĩnh, một khi quý vị mất bình tĩnh, quý vị sẽ tức giận, ngọn lửa giận cao tận ba ngàn trƣợng. Đây là một cơn gió chế giễu khiến quý vị nổi giận lên.
Khổ có nghĩa là rất cay đắng, rất cay đắng, giống nhƣ khi ăn thứ gì vào quý vị thấy đắng thì rất khó chịu. Đối diện với khổ thì sẽ lo lắng, khi lo lắng thì tức giận, khi tức giận thì gần nhƣ toàn bộ máu trên ngƣời đều bị đốt khô, khi khô rồi thì miệng đắng ngắt, răng sẽ đau, tai sẽ đau,…, tất cả bệnh gì đều do đây mà đến! Cơn gió đắng này đã thổi quý vị vào bao nhiêu vấn đề, nhƣ cau mày, mờ mắt, điếc và đau răng. Đây là đau khổ!
Vui là niềm vui, hạnh phúc. Mọi ngƣời quý vị gặp đều là những ngƣời rất vui vẻ, mọi ngƣời đều đối xử tốt với quý vị, quý vị ăn ngon, mặc đẹp, sống tốt, đi lại bằng những chiếc xe sang, cho nên lúc này quý vị rất hạnh phúc. Niềm vui chốc lát làm quý vị quên đi bổn tâm của mình. Sống giữa niềm vui khiến cho quý vị đánh mất đi nhiệm vụ tìm đƣờng trở về Phật quốc. Tất cả chỉ vì ngọn gió hạnh phúc, khiến ngƣời ta mê muội, nhƣ thể họ đã thành tiên hoặc thành Phật. Khi đó, quý vị sẽ quên tu hành, chỉ vì quý vị đã hạnh phúc! Hạnh phúc cũng là một cơn gió độc nên đừng nghĩ rằng hạnh phúc là tốt.
Lợi, tức là lợi ích, đạt đƣợc lợi ích. Khi quý vị mua cổ phiếu với giá 500 đô la nhƣng ba ngày sau nó tăng gấp bốn lần, trị giá hai nghìn đô la, lần này đƣợc lãi rất nhiều. Quý vị nghĩ ―Ồ! Lần này tôi có thể giàu lên rồi‖. Điều này cũng là bị gió thổi lay chuyển.
Suy chính là suy bại. Ví dụ nhà quý vị có một trăm phòng nhƣng bất chợt bị cháy và lan ra hết tất cả. Ngọn lửa thiêu rụi tất cả, cả ngôi nhà bị cháy hết, lúc này quý vị thấy rất tệ hại. Đây là suy.
Đắc chính là đƣợc. Khi quý vị đi trên đƣờng nhặt đƣợc 500 đô la thì lòng rất vui.
Mất, sau khi quý vị có đƣợc rồi không lâu lại mất nên buồn, chợt vui đó, rồi lại buồn.
Hủy chính là hủy báng, phỉ báng; dự cũng chính là khen quý vị. Hủy-dự (hủy báng- khen ngợi) và xƣng-cơ (khen chê) đều giống nhau, cho nên đổi-xƣng cơ thay cho hủy-dự cũng đƣợc. Nếu quý vị không có định lực thì sẽ bị tám gió này cuốn bay,và ngƣợc lại nếu quý vị có định lực thì bát phong đến bạn không bị dao động. Đây gọi là tám gió thổi không động.
Tô Đông Pha cho rằng mình ―bát phong suy bất động, đoan tọa tử kim liên‖: Ông ta cho rằng mình đạt đến trình độ nhƣ ngồi trên hoa sen màu tím, nhƣ nhƣ bất động, liễu liễu thƣờng minh. Thật tuyệt vời! Ông ta nghĩ. Điều mình ngộ không thể dùng ngôn từ nào mà diễn tả đƣợc, chỉ mƣợn tạm bốn câu kệ để trình bày. Lúc này mới hạ bút viết rồi gửi đến thiền sƣ Phật Ấn nhờ ngài ấn chứng sở đắc của mình. Thiền sƣ Phật Ấn rất vui, sai thị giả gửi lại trả lại bài kệ, không nói gì chỉ viết bốn chữ ở cuối bài thơ. Bốn chữ đơn giản dễ hiểu, đó là: “Đánh rắm, đánh rắm‖. Tô Đông Pha xem xong. Hả! Tôi viết thơ hay nhƣ vậy, sao ngài lại nói tôi là ―đánh rắm‖? Thật bực mình!
Lúc này, không cần ―tám gió‖ hay ―một gió‖ mà chỉ cần hai chữ ―đánh rắm‖ của thiền sƣ đã làm Tô Đông Pha nhảy dựng lên. Ông ta đi vội vã qua sông từ Giang Nam đến Giang Bắc đến chùa Kim Sơn hỏi thiền sƣ Phật Ấn cho rõ ràng.
Vừa vào cửa liền tức giận nói: ―Này hòa thƣợng, sao thầy lại mắng tôi?”
Thiền sƣ đáp: “Ta mắng ngƣơi làm gì? Ai mắng ngƣơi?”
Đông Pha: Tôi làm bài thơ này là sự kiến giải sự tu hành của tôi, tôi tu hành đến trình độ viết bài thơ này, tại sao nói tôi đánh rắm?”
Thiền sƣ đáp: Ông nói ―bát phong suy bất động‖ sao tôi chỉ đề hai chữ ―đánh rắm‖ thôi mà ông đã liền nhảy dựng mà qua sông rồi.
Tô Đông Pha nghe nói vậy liền nghĩ: Ồ! Đúng! Đúng là chẳng ra làm sao cả, không có gì để nói. Đều là tại ta không có công phu; nếu có đủ công phu, tám gió không lay động, đánh hai cái rắm làm sao đã nhảy dựng lên?
Thế là Tô Đông Pha vội cúi đầu đảnh lễ, xin thiền sƣ chỉ dạy thêm, để về dụng công tu tập.
Vì sao Tô Đông Pha nhận đƣợc thơ phải lập tức qua sông từ Giang Nam đến chùa Kim Sơn ở Giang Bắc. Đó cũng chỉ vì công phu không tự tại mà thôi. Nếu nhƣ ông ta tự tại giống nhƣ Bồ tát Quán Thế Âm thì sẽ không vội vã đến hỏi cho ra lẽ. Lúc đó đánh rắm hay không đánh rắm cũng không quan trọng, muốn nói gì cũng đƣợc, tâm vẫn không lay động; Đó chính là công phu. Khi ấy Thiền sƣ Phật Ấn sẽ khâm phục ông. Nhƣng hiện thực thì Tô Đông Pha đã gục ngã dƣới hai chữ ―đánh rắm‖ của Thiền Sƣ.
“Cũng tên là Nhiên Sách”: vị Bồ Tát này luôn cầm một sợi dây, không phải Ngài Quán Thế Âm hiện tƣớng ―tứ thập nhị thủ‖ có một tƣớng cầm sợi dây Nhiên Sách sao? Sợi dây làm bằng lụa, Nhiên Sách chính là sợi dây này; “cũng gọi là Thiên Quang Nhãn”: cũng còn có tên gọi khác là Thiên Quang Nhãn.
―Thiện nam tử‖: Đức Phật gọi A nan là thiện nam tử. “Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn”: thần lực oai đức của ngài Quán Âm không thể suy nghĩ, tƣởng tƣợng đƣợc, không thể dùng ngôn từ mà nói. “Trong vô lượng kiếp về trước”: trong vô lƣợng kiếp về trƣớc, Ngài đã trải qua số kiếp quá khứ nhiều vô lƣợng vô biên; “từng thành Phật”: ngài đã thành Phật, “hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai”: ngài thành Phật tên là gì? Tên của ngài là Chánh Pháp Minh Nhƣ lai. “Vì nguyện lực đại bi”: vị Bồ tát này, vì không quên nguyện lực của mình, đây là lời nguyện đại bi của ngài trong quá khứ; “vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát”: ngài muốn cho tất cả Bồ tát đều phát Bồ Đề tâm, hành Bồ tát đạo, “vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh”: vì muốn đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, “ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát”: cho nên thị hiện làm bồ tát, ngài vốn là Chánh Pháp Minh Nhƣ Lai, nay là Bồ tát Quán Thế Âm.
[1] Tô Đông Pha tức Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cƣ sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông đƣợc mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
[2] Thiền sƣ Phật Ấn (1032-1098) là bậc danh tăng thời nhà Tống, pháp danh là Liễu Nguyên, tự Giác Lão, họ Lâm quê ở Nhiêu Châu, Phù Lƣơng (xƣa thuộc quận Bà Dƣơng, tỉnh Giang Tây nay là trấn Cảnh Đức tỉnh Giang Tây)
Hán văn: Nhữ đẳng đại chúng, chƣ Bồ tát ma ha tát, phạm thích long thần, giai ƣng cung kính, mạc sanh khinh mạn, nhất thiết nhân thiên, thƣờng tu cúng dƣờng, chuyên xƣng danh hiệu, đắc vô lƣợng phƣớc, diệt vô lƣợng tội, mạng chung vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
(Việt dịch: Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát Ma Ha Tát. Phạm vương, Đế Thích, Long, Thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội, mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.) Lược giảng:
“Vậy ông và đại chúng”: Đức Phật bảo A nan và tất cả đại chúng có mặt trong pháp hội hay không có mặt trong pháp hội, “các hàng Bồ Tát Ma Ha Tát”: tất cả Bồ tát và đại Bồ tát, “Phạm vương, Đế Thích, Long, Thần”: Đế Thích chính là vua trời Đế Thích. Phạm Vƣơng chính là Đại Phạm Thiên Vƣơng vua cõi trời Tịnh Cƣ, rất tự tại, nên cũng có tên là trời Đại Tự Tại. Đế Thích chính là Đế Thích Thiên, cũng chính là thiên chủ; Ở chú Lăng Nghiêm gọi ông là Nhân Đà La. ―Nam mô nhân-đà-la-da‖chính là chỉ cho Đế Thích. “Long” chính là rồng ở trên trời, “Thần”: tất cả thần. “đều nên cung kính”: đều phải cung kính Quán Thế Âm Bồ tát, “chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường”: không đƣợc xem thƣờng, khinh mạn Quán Thế Âm Bồ tát. “Nếu tất cả hàng trời, người”: tất cả ngƣời ở thế gian và ngƣời ở cõi trời, “thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát”: nên thƣờng cúng dƣờng Quán Thế Âm, chuyên tâm xƣng danh hiệu ngài, “sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội”: đƣợc vô lƣợng phƣớc, diệt vô lƣợng tội, “mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà”: khi lâm chung nhất định sanh về thế giới Tây Phƣơng Cực Lạc.Vì đức Phật A Di Đà là thầy của Bồ Tát Quán Thế Âm. Quý vị niệm danh hiệu đệ tử của Ngài thì tƣơng lai sẽ sinh về Thế Giới Tây Phƣơng Cực Lạc.
Hán văn: Phật cáo A nan, thử Quán Thế Âm bồ tát sở thuyết thần chú, chân thật bất hƣ, nhƣợc dục thỉnh thử Bồ Tát lai, chú chuyết cụ la hƣơng tam thất biến thiêu, bồ tát tức lai. (Chú: Chuyết cụ la hƣơng, an tức hƣơng dả.)
(Việt dịch: Đức Phật bảo ngài A Nan: Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên thì Bồ tát sẽ giáng lâm (Ghi chú: Chuyết Cụ La chính là hương An Tức).
Lược giảng:
Đức Phật bảo ngài A nan, “Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây”: thần chú Đại Bi do Bồ tát Quán Thế Âm nói là “chân thật không dối”. thần chú này có công đức lớn không thể nghĩ bàn, thần lực không thể nghĩ bàn, có năng lực diệt vô lƣợng tội, tăng vô lƣợng phƣớc, là lời chân thật không giả. “Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến”: nếu có ngƣời muốn thỉnh Ngài quang lâm tới đạo tràng thì “nên tụng chú vào hương Chuyết Cụ La 21 lần rồi đốt lên”: Chuyết Cụ La chính là hƣơng An Tức, ở ở hiệu thuốc bắc có loại hƣơng này, tam thất biến chính là ba nhân bảy bằng 21 lần. Quý vị niệm 21 biến trú vào hƣơng An Tức rồi đốt lên “Bồ Tát sẽ giáng lâm”: thì Bồ tát sẽ giáng lâm đạo tràng hoặc Pháp hội.
Hán văn: Nhƣợc hữu miêu nhi sở trƣớc giả, thủ nhị lý tra na, thiêu tác hôi, hòa tịnh độ nê, niệp tác miêu nhi hình, ƣ thiên hình tƣợng tiền, chú tấn thiết đao tử nhất bách bát thiên, đoạn đoạn cát chi, diệc nhất bách bát đoạn, biến biến nhất chú, nhất xƣng bỉ danh, tức vĩnh sai bất trƣớc. (Chú: nhị lý tra na, Tử miêu nhi đầu cốt dã.)
(Việt dịch: Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa thân hành bệnh. Nên tìm một hộp sọ của con mèo đã chết, đốt tan ra thành tro, rồi trộn với đất sét sạch, nặn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một dao, kêu tên mèo một lần. Làm như thế bệnh nhân sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại.). (Chú thích: Nhị lý tra na là hộp sọ của một con mèo đã chết) Lược giảng:
Vài ngày trƣớc, Quả Ninh có một ngƣời họ hàng đến thăm và nhân tiện hỏi tôi có giảng kinh ‗Kinh Đại Bi Đà la ni‘ nhƣ thƣờng lệ không. Bởi vì anh ta cho rằng những điều trong ―Kinh Đại Bi tâm Đà la ni‖ rất kỳ lạ, anh ta sợ ngƣời thân của mình nghe thấy và cho đó là những điều hoang đƣờng, càng không tin vào đạo Phật rồi sinh tâm phỉ báng. Kỳ thật những điều trong kinh dạy chẳng có gì lạ cả, chẳng qua ngƣời phƣơng Tây họ chƣa gặp qua nên cho rằng những việc này là kỳ lạ. Còn ở Ấn Độ và Trung Quốc, điều này không có gì là lạ cả, tất cả đều là là chuyện bình thƣờng.
“Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa thân hành bệnh”: bị loài ma Mèo dựa thân là sao? Trên thế gian này có đến 84.000 loại bệnh tật, có rất nhiều bệnh quái lạ, quý vị không có cách nào hiểu hết đƣợc, bác sĩ cũng không có cách nào chữa trị.
Mèo tuy là con vật nhỏ nhƣng tính hay nghịch nghợm, rồi có cả ma mèo, ma mèo thì nhƣ thế nào? Ma mèo thì chúng quấy phá nhƣ quái vật. Ở Đông Bắc, tôi gặp một con mèo mắc bệnh quái ác, con mèo này cả ngày nhảy cẫng lên không ngừng, lúc nào nó cũng trong tình trạng nhƣ vậy. Sao lại có loại bệnh tật quỷ dị này, đó là vì có yêu ma quỷ quái tác quái khiến nó bị vậy. Loại mèo này sau khi chết đi sẽ trở thành ma mèo, ma mèo sẽ đến dựa vào thân, trêu chọc con ngƣời, khiến ngƣời đó hồ đồ, ngu muội.
Bởi vì ―Chú Đại Bi‖ có thể chữa bất kỳ bệnh lạ và khó chữa nào, nên bây giờ tôi sẽ nói về cách trị loại bệnh ma mèo này. Loại bệnh này không dễ chữa, bởi vì con mèo này giống nhƣ một con hổ. Nếu trong nhà có một con ma nhƣ con hổ nhỏ nhƣ vậy thì không dễ gì trị đƣợc, cho nên phải dùng một loại phƣơng pháp trị. Thuốc giải là lấy độc trị độc – dùng loại độc thích hợp để trị ngƣời bị trúng độc. Thuốc chữa bệnh nào cũng là lấy độc trị độc, vì có độc này thì độc kia mất.
Đó là lý do tại sao trong kinh dạy rằng nếu ai đó bị ma mèo dựa thân, hãy “lấy nhị lý tra na”: Nhị lý tra na là hộp sọ của một con mèo đã chết. Để chữa bệnh cho ngƣời bị bệnh do ma mèo dựa thân, thì cần sử dụng hộp sọ của con mèo đã chết. Làm nhƣ thế nào? “đốt tan ra thành tro, rồi trộn với đất sét sạch”: đem cái hộp sọ đó đốt thành tro, trộn với đất sét sạch. Vì nếu chỉ riêng hộp sọ mèo có rất ít tro nên quý vị không thể làm thành hình con mèo đƣợc, vì vậy quý vị cần thêm một ít đất sét sạch. Ồ, trộn đất sét sạch với tro sọ mèo chết, để làm gì? “Nặn thành hình con mèo”: nặn nó thành hình một con mèo nhỏ. Quý vị nghe tôi bảo làm nhƣ thế thật giống chuyện của con nít chơi quá phải không ?
“Để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn”: đặt tƣợng con mèo vừa mới tạo đối trƣớc tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ tát, “tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao tốt”: hán văn dùng từ ‗Tấn thiết‘ chính là loại sắt tốt trong các loại sắt, dùng sắt đó làm thành con dao và trì vào lƣỡi dao đó 108 biến chú Đại Bi, “rồi chặt ra từng đoạn”: chặt con mèo làm từ đất sét và tro sọ con mèo thành từng đoạn, “thành 108 đoạn”: rồi chặt thành 108 đoạn. “Mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một dao”: sau khi trì xong một biến thần chú thì dùng dao chặt hình con mèo một lần, tức là sẽ phải trì 108 biến chú nữa để chặt hết 108 lần vào hình con mèo. “kêu tên mèo một lần”: khi chặt thì gọi tên con mèo đó một lần, “làm như thế bệnh sẽ lành”: làm nhƣ vậy xong bệnh sẽ khỏi, không bao giờ tái phát, không bị yêu ma mèo quấy phá nữa. Phƣơng pháp và nguyên tắc này đúng là không thể nghĩ bàn, và tất cả đều thuộc Phật giáo Mật tông. Mật tông là một loại bí pháp, bí pháp là không thể hiểu đƣợc công năng, diệu dụng, cho nên không phải ngƣời bình thƣờng có thể hiểu đƣợc đạo lý này.
Hán văn: Nhƣợc vi cổ độc sở hại giả, thủ dƣợc kiếp bố la, hòa chuyết cụ la hƣơng, các đẳng phân, dĩ tỉnh hoa thủy nhất thăng, hoa tiễn, thủ nhất thăng, ƣ thiên nhãn tƣợng tiền, chú nhất bách bát biến phục, tức sái. (Chú: Dƣợc kiếp bố la: Long não hƣơng).
(Việt dịch: Nếu nɡười nào bị chất độc củɑ loài sâu cổ làm hại, thì dùnɡ hươnɡ dược kiếp bố lɑ hòɑ với chuyết cụ lɑ hươnɡ, mỗi lượng bằng nhau đem hòa vào nước tronɡ, sắc còn một thăng. Xonɡ, lại để chén thuốc ấy trước tượnɡ Thiên Nhãn tụnɡ chú 108 biến rồi cho bệnh nhân uốnɡ, bệnh sẽ khỏi. (Chú thích: Dược kiếp bố la hương là hương Long não)
Lược giảng:
Có một hạng cổ sƣ, họ có rất nhiều thần thông, có thể phi hành biến hóa, thoắt ẩn thoắt hiện nhƣng đa số những ngƣời này có tâm địa rất độc ác. Đa số những hạng cổ sƣ này từ đâu mà ra, đa phần là từ loài rắn độc mà biến hóa ra. Họ lấy việc giết ngƣời để gia tăng năng lực, lấy hại ngƣời để tu luyện thần thông, xem việc giết ngƣời, hại ngƣời là chuyện rất bình thƣờng. Những hạng cổ sƣ này có thể thấy ở Việt Nam, Thái Lan, Vân Nam, Trung Quốc hay Singapore và Malaya. Trong tiếng Quảng Đông, có một tên gọi khác của những cổ sƣ này là ‗Bùa ngải‘. Trƣớc đây khi ngƣời Hoa sang Việt Nam hay Singapore có lấy ngƣời phụ nữ bản địa làm vợ. Sau khi kết hôn những ngƣời phụ nữ này sợ chồng mình trở về Trung Quốc, nên họ đặt „cổ trùng‟ cho anh ta. Nếu ngƣời chồng không trở về Trung Quốc thì họ sẽ không động thủ, không làm cho „cổ trùng‟ phát tác; nhƣng nếu ngƣời chồng trở về Trung Quốc, ngƣời vợ sẽ niệm chú, „cổ trùng‟ sẽ phát tác và ngƣời chồng sẽ phải chết.
Này Chiêm Ni Tang! Bạn có nghe qua điều đó chƣa?
Chiêm Ni Tang: Có ạ, nghe ngƣời nữ hạ cổ trùng ạ.
Thƣợng nhân: Bạn không hiểu ý tôi?
Chiêm Ni Tang: Dạ hiểu ạ! Ở đó có những ngƣời phụ nữ có thể hạ cổ trùng. Thƣợng nhân: Ồ? Vậy bạn đã gặp những trƣờng hợp nhƣ thế bao giờ chƣa?
Chiêm Ni Tang: Ở Trung Quốc, con có ngƣời bạn hạ cổ ạ.
Thƣợng nhân: Thật đáng tiếc! Nếu anh ấy biết niệm Chú Lăng Nghiêm, thì cổ trùng đã không thể làm hại đƣợc.
Chiêm Ni Tang: Ở Quý Châu, con đã từng thấy qua ngƣời làm cổ trùng, mắt anh ta đỏ hoe. Chính mắt con chứng kiến ngƣời này bỏ bùa vào tô mì của bạn con khi mời bạn con ăn mì. Vì biết trƣớc điều này nên bạn con đã đổ tô mì xuống nền gạch mà không ăn, một lát sau thì mì có màu nhƣ máu. Có rất nhiều ngƣời sử dụng cổ trùng ở Quý Châu và Vân Nam.
Thƣợng nhân: Khi bạn đến nhà cổ sƣ bạn chỉ cần uống một tách trà thì bạn đã bị cổ trùng rồi.
Chiêm Ni Tang: Dạ! Trùng đó giống nhƣ máu.
Thƣợng nhân: Chẳng hạn vị cổ sƣ bỏ cổ trùng vào vật gì đó mà quý vị sờ vào thì cũng đã bị trúng cổ rồi. Cổ rất mạnh và lợi hại. Nhƣ cổ sƣ đặt đồ vật nào đố trên đƣờng nếu quý vị chạm vào, hoặc đá vào thị quý vị đã trúng cổ rồi. Cổ trùng này rất mạnh. Cổ này đƣợc điều khiển bởi cổ sƣ. Nếu quý vị muốn hại ai chỉ cần đến thƣơng lƣợng với cổ sƣ, cổ sƣ sẽ chỉ bày cách cho quý vị phƣơng pháp. Có rất nhiều ngƣời đã học đƣợc
Cổ này. Nhƣng chỉ cần bạn trì chú Lăng Nghiêm thì quý vị sẽ không phải sợ bất kỳ loại Cổ nào. Không chỉ có chú Lăng Nghiêm mà còn có chú Đại Bi. Nếu quý vị biết niệm chú Đại Bi thì bất kể cổ sƣ hạ bạn cổ trùng gì thì chú Đại Bi cũng đều có thể giải trừ đƣợc.
Chiêm Ni Tang: Những ngƣời bị nhiễm Cổ sẽ chết trong vòng ba mƣơi ngày.
Thƣợng Nhân: Ồ! Chết trong vòng ba mƣơi ngày. Không đâu! Nếu có ngƣời nào trì năm đệ chú Lăng Nghiêm hay Ngũ Đại Tâm Chú trong chú Lăng Nghiêm mà tôi đã chỉ cho quý vị thì chất độc của Cổ trùng đều mất tác dụng. Bất kể là loại Cổ trùng nào đi nữa cũng đều tiêu tan, không còn tác dụng.
“Nếu nɡười nào bị cổ độc làm hại”: nếu có ngƣời nào bị cổ độc làm hại nên “dùng hươnɡ dược kiếp bố lɑ hòɑ với chuyết cụ lɑ hương”: ‗Dƣợc kiếp bố la‘ chính là Long Não hƣơng là một loại thuốc và ‗Chuyết Cụ La‘ chính là ‗An Tức Hƣơng‘, “mỗi lượng bằng nhau”: chính là lấy hai phần thuốc có lƣợng bằng nhau, nếu Long Não hƣơng ba lạng thì An Tức hƣơng cũng ba lạng, nếu Long Não hƣơng năm lạng thì An Tức hƣơng cũng năm lạng. “đem hòa vào nước tronɡ”: Hán văn dùng từ ‗tỉnh hoa thủy[1]‘ là loại nƣớc suối, nƣớc ở giếng vào buổi sáng có vị ngọt không độc, hay nƣớc đƣợc lấy buổi sáng sớm, đặc biệt lấy nƣớc từ núi, khe suối, nƣớc ở chỗ mà mới chảy tuôn ra tung tóe chứ không phải chỗ nƣớc đã để lâu, vì vậy mới gọi là tỉnh hoa thủy, hòa với nhau là đem 2 phần thuốc trên hòa với nƣớc; “sắc còn một thăng”: ‗Thăng‘ là đơn vị đo, nếu đổi ra thì bằng khoảng 1 lít. Đem chỗ thuốc đã đƣợc hòa với nƣớc sạch đó đun lên, sắc còn 1 thăng (1 lít). Lƣợng này còn nhƣ cái chén hoặc nhiều hơn giống nhƣ cái bát vậy, “để chén thuốc ấy trước tượnɡ Thiên Nhãn”: sau đó để chén thuốc đó đặt trƣớc tƣợng Quán Thế Âm Bồ Tát Nghìn Tay Ngìn Mắt, “tụnɡ chú 108 biến”: và thành tâm tụng 108 biến thần chú Đại Bi; sau đó cho ngƣời bị bệnh uống thì “bệnh sẽ khỏi”. Hán văn dùng chữ ‗Tức sái‘: nghĩa là liền khỏi ngay. Chữ ‗sái‘ này vốn đọc chữ ‗sứa‘, bên cạnh thêm chữ ‗bệnh‘, ‗báng (瘥)‘ nghĩa là khỏi hẳn. (Kinh văn nói dùng nước tỉnh hoa thủy, nhưng tùy điều kiện thực tế có thể dùng nước giếng vào sáng sớm, hoặc nước sạch tinh khiết, hay nước sạch không trùng)
[1] Căn cứ vào sách đông y Bổn Thảo Cƣơng Mục, quyển 5 của Lý Thời Trân thời nhà Minh cho rằng: Tỉnh hoa thủy là loại nƣớc suối, nƣớc ở giếng vào buổi sáng có vị ngọt không độc, có tác dụng an thần, trấn tỉnh, thanh nhiệt, trợ âm vv. Uông Dĩnh cho rằng: Nƣớc đƣợc lấy buổi sáng sớm gọi là tỉnh hoa thủy, đặc biệt lấy nƣớc từ núi, khe suối là tinh phẩm, mùa đông ôn, hạ mát, ngọt ngào tinh thuần.
Hán văn: Nhƣợc vị độc xà, hiết sở thích giả, thủ càn gƣơng mạt, chú nhất thất biến, trƣớc sang trúng, lập tức trừ sai.
(Việt dịch: Nếu bị rắn độc, rết cắn, dùng gừng khô nghiền thành bột, tụng chú vào đấy 7 biến, rồi đắp lên vết thương, liền hết.)
Lược giảng:
“Nếu bị rắn độc, rết cắn”: ‗Độc xà‘ là những loài rắn độc, ‗hiết‘ là loài rết hay bọ cạp, ‗thích‘ là bị châm, chích, hay cắn. Loại rắn và rết, bọ cạp bị nó chích, cắn thì rất đau, nếu không chữa trị kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Nhƣ loài ong vò vẽ cũng vậy, có một số loài ong đốt thì không nguy hiểm nhƣng bị ong vò vẽ đốt thì có thể mất mạng, “dùng gừng khô nghiền thành bột”: lúc này nên lấy gừng khô nghiền ra thành bột, “tụng chú vào đấy 7 biến”: sau đó trì vào đó 7 biến chú Đại Bi, “rồi đắp lên vết thương”: rồi đắp lên chỗ bị cắn thì độc tố đƣợc giải trừ ngay lập tức, chất độc đƣợc giải trừ rồi thì sẽ không sao cả.
Long Não hƣơng và An Tức hƣơng có chức năng xua đuổi tà ma, tà ma và quỷ thần ngửi thấy mùi hƣơng An Tức và hƣơng Long Não liền sợ hãi, vì hai mùi này hễ tà ma ngửi vào sẽ chịu không nổi, nên có nó thì tà ma tránh xa. Thậm chí những linh hồn vất vƣởng hay tạp mị, võng lƣợng ngửi thấy mùi liền chạy xa. Cho nên lấy chúng nấu với nƣớc sạch có thể loại bỏ đƣợc cổ trùng. Gừng có vị cay, mặc dù rắn độc và bò cạp đều có độc, nhƣng độc của chúng lại kỵ cay, cho nên bột gừng khô có năng lực giải trừ những loại chất độc này, vết đốt sẽ nhanh chóng lành lại; Lại nệm chú Đại bi bảy biến, đắp vào chỗ châm chích thì liền nhanh khỏi
Hiệu quả chữa bệnh đều lấy trên nguyên tắc lấy độc trị độc, nền tảng tƣơng khắc với nhau cũng là hiện tƣợng vật lý tự nhiên. Nhƣ triết học Trung Quốc có học thuyết ngũ hành: mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Bởi thế, bệnh này lấy loại thuốc khắc chế cũng là một tác dụng vật lý. Phàm tất cả các phƣơng pháp chữa bệnh, thuốc gì bệnh gì đều là tác dụng vật lý.
Hán văn: Nhƣợc vị ác oán hoành tƣớng mƣu hại giả, thủ tịnh độ, hoặc miến, hoặc chá, niêm tác bổn hình, ƣ thiên nhãn tƣợng tiền, chú tấn thiết đao nhất bách bát biến, nhất chú nhất tiệt, nhất xƣng bỉ danh, thiêu tận nhất bách bát đoạn, bỉ tức hoan hỷ, chung thân hậu trọng tƣơng ái kính.
(Việt dịch: Nếu bị kẻ thù oán mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong để hình nhân trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi. Sau đó lại tụng một biến thì cắt hình nhân một dao và kêu tên người kia một lần, cắt thành 108 đoạn rồi đem hình nhân đã chặt đốt đi. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau.) Lược giảng:
“Nếu bị kẻ thù oán mưu hại”: giả sử nhƣ có ngƣời oán thù với quý vị, hoặc do hiểu lầm, hoặc do bất đồng quan điểm về điều gì đó mà dẫn đến thù oán với nhau, họ muốn dùng mọi thủ đoạn thâm hiểm mƣu hại hoặc gây bất lợi cho quý vị. Điều này đối với quý vị không tốt chút nào. Lúc này quý vị nên “dùng đất sạch”: loại đất sét sạch; “hoặc bột, hoặc sáp”: bột là bột làm từ ngũ cốc, hoặc sáp nến. Tiếp theo thì “nắn thành hình kẻ ấy”: quý vị có thể nặn chỗ đất, bột, sáp đó thành hình của kẻ thù oán, hoặc chính hình của mình cũng đƣợc, nói chung là thành hình ngƣời.
“Xong, lại để hình nhân trước tượng Thiên Nhãn”: nặn xong hình ngƣời thì đặt nó trƣớc tƣợng Quán Thế Âm Bồ tát nghìn tay nghìn mắt. “tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi”: trì 108 biến thần chú Đại Bi vào lƣỡi dao; “Sau đó lại tụng một biến thì cắt hình nhân một dao và kêu tên người kia một lần, cắt thành 108 đoạn”: sau đó dùng con dao đã trì chú vào đó cắt hình nhân thành 108 đoạn, tụng xong một biến chú Đại Bi, kêu tên kẻ thù oán một lần thì cắt một đoạn, ―rồi đem hình nhân đã chặt đốt đi‖: chặt xong thì đem đốt đi, nếu là hình nhân bằng đất thì nó sẽ không cháy, vậy nên không nên dùng đất để làm hình nhân, còn hình nhân bằng bột hay sáp thì đốt xong nó sẽ cháy thành ra tro. “Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ”: nếu có thể đúng theo pháp mà làm thì kẻ thù muốn hại quý vị sẽ không hại quý vị nữa, “thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau”: họ đối với quý vị sanh tâm hoan hỉ, trọn đời tôn trọng quý vị, quý mến quý vị và không có ý nghĩ mƣu hại quý vị.
Hán văn: Nhƣợc hữu hoạn nhãn tình hoại giả, nhƣợc thanh mân nhãn ám giả, nhƣợc bạch vựng xích mạc vô quang minh giả. Thủ ha lê lặc quả, am ma lặc quả, bính hề lặc quả, tam quả các nhất khỏa, đảo phá tế nghiên, đƣơng nghiên thời. Duy tu hộ tịnh, mạc sử tân sản phụ nhân cấp trƣ cẩu kiến, khẩu trung niệm Phật, dĩ bạch mật nhƣợc nhũ chấp hòa, phong nhãn trung trƣớc, kỳ nhân nhũ, yếu tu nam hài tử mẫu nhủ, nữ mẫu nhủ bất thành, kỳ nhƣợc hòa cánh, hoàn tu thiên nhãn tƣợng tiền, chú nhất bách bát thiên, trƣớc nhãn trung mãn thất nhật. Tại thâm thất thận phong, nhãn thanh hoàn sanh, thanh mân bạch vựng giả, quang kỳ thạnh dã.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh về mắt, hoặc thanh mân, hoặc bạch vựng, hoặc mắt kéo màng đỏ, không thấy được ánh sáng. Nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ lấy một quả, đem đập nhỏ rồi nghiền mịn ra, khi đập nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ chớ để cho chó, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Miệng luôn niệm Phật. Nghiền xong đem hòa với mật trắng, hoặc sữa người rồi đắp mắt. Sữa này phải là của phụ nhân sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thuốc xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bệnh nhân phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy đắp vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sáng, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ) Lược giảng:
“Nếu bị bệnh về mắt”: Mắt là biểu hiện của tâm, mắt là hình ảnh tái hiện của tâm. Mất ngƣời tại sao bị hƣ? Đó là do họ có tâm không tốt. Tâm tốt thì mắt tốt, tâm xấu thì mắt xấu. Đó là lý do tại sao ngƣời Mỹ dạy mọi ngƣời nhìn vào mắt ngƣời khác từ khi còn nhỏ, còn ngƣời Trung Quốc thì không có thói quen đó. Vì nếu quý vị nhìn lâu vào mắt ai đó, họ sẽ ngƣợng ngùng và cảm thấy rất xấu hổ.
Về mắt, Mạnh Tử nói: ―Lòng ngay thẳng thì đồng tử trong; lòng không ngay thẳng thì đồng tử đục‖. Lòng ngƣời nếu chánh thì mắt sẽ trong, lòng không chánh thì mắt mờ kém. Bởi mắt mờ đục nên mở và nhắm cũng nhƣ không, nhìn cái gì thì cũng không rõ ràng. Có một loại bệnh về mắt là mâu tử mao (mắt lờ mờ). ‗Mao‘ chính là không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì, khi nhìn giống nhƣ có vật gì cản trƣớc mắt. Tại sao? Đó là bởi vì tâm không ngay thẳng, hoặc quan điểm tà kiến, hoặc uống rƣợu chè sa ngã, hoặc phóng túng háo sắc, nóng giận,… rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣng tất cả những việc làm tiêu hao đến tinh, khí và thần là nguyên nhân căn bản.
Có câu chuyện tiếu lâm: Có một anh chàng nọ đặc biệt có đôi mắt rất tinh anh, tinh nhƣ thế nào? Đến nỗi ngoài 40 dặm anh ta còn thấy con muỗi thở nhƣ thế nào. Nhƣng lại nghịch đời khi anh ta bƣớc chân ra khỏi cửa lại vấp nhầm con bò. Quý vị xem anh ta có thể nhìn thấy một con muỗi thở cách xa 40 dặm, nhƣng khi ra khỏi cửa lại vấp phải con bò, điều này có vô lý không cơ chứ.
Để tôi kể một công án khác về thị lực kém: Có anh chàng đôi mắt hình nhƣ rất kém, ban đêm không thấy, ban ngày cũng không thấy. Mắt anh ta kém đến nhƣ thế nào?
‗Khăn tay đen rơi xuống đất nhƣ quạ bay‘: Một hôm chiếc khăn tay màu đen rơi xuống thì anh ta ngỡ là chim quạ bay qua, ‗Ai nhƣ bên cạnh vợ tôi đấy‘: Vợ anh ta ngồi bên cạnh, anh ta lại hỏi ai đấy, thậm chí anh ta còn không nhận ra vợ của mình; ‗Một rèm có lỗ hơn chục quả‘: Rèm cửa có nhiều lỗ tròn, ánh nắng chiếu vào rèm cửa và rọi xuống dƣới đất, trên đất có những vệt nắng vàng hình tròn, anh ta lại tƣởng những vệt nắng dƣới đất là trứng gà vội đi nhặt. ‗Bóng trăng soi hoa lại nhặt củi‘: Còn ánh trăng soi một cành hoa, bóng của cành hoa dƣới nền đất thì ngỡ là cành củi khô vội đi đến nhặt; ‗Nhãn rỗi xem tranh đau cả mũi; ‗Nhƣng thật kỳ lạ là khi rảnh rỗi anh ta xem tranh đến nỗi mũi bị viêm do ngửi nhiều. ‗Bận khóa tủ sách lại đứt lông mày‘: Có lần anh ta trong lúc hoảng loạn muốn đi khóa tủ sách lại, nhƣng do vì cúi sát gần tủ khóa quá đến nỗi bị đứt cả lông mày. ‗Chuyện cƣời lại càng thêm cƣời‘: Rồi lại thêm một chuyện buồn cƣời nữa; ‗Đi thồi đèn làm bỏng da môi‘: Khi đi thổi đèn dầu, do vì không nhìn rõ nên anh ta đƣa môi đến gần đèn đến nỗi làm bỏng cả da. Quý vị có hay đọc chuyện cƣời không? Chuyện này là chỉ những ngƣời có bị mờ mắt.
“Nhược thanh mân nhãn ám giả”: ‗Thanh mân‘ chính là sáng sớm thức dậy, mắt mở ra bình thƣờng, nhƣng cái gì cũng không nhìn thấy, đây còn gọi là tật lác mắt, giống nhƣ mắt của con quạ. Tuy mắt mở nhƣng không nhìn thấy gì. “Nhược bạch vựng, xích mạc, vô quang minh giả”: ‗Bạch vựng‘: tức là tròng mắt có đốm trắng, còn “nguyệt vựng”: là chứng bệnh hoa mắt chóng mặt, “xích mạc” tức là mắt kéo màng đỏ, mắt có màu đỏ, vừa rồi nói đến cổ sƣ mắt có màu đỏ, cũng tƣơng tự nhƣ vậy, “vô quang minh”: là ngƣời không thấy đƣợc ánh sáng, không cảm nhận đƣợc ánh sáng.
Kinh văn đoạn này nói rằng ngƣời này bị bệnh ở mắt nên lấy quả “ha lê lặc”, “am ma lặc”, “bệ hê lặc”: những quả này là những loại quả ở Ấn Độ; “mỗi thứ lấy một quả” lấy một quả cho mỗi loại. “đem đập nhỏ rồi nghiền mịn ra”: lấy ba quả này đem đập nhỏ rồi nghiền mịn, khi xay bạn phải thật cẩn thận và giữ cho sạch sẽ. Sự cẩn thận và sạch sẽ nhƣ thế nào? “khi đập nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ chớ để cho chó, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy”: tức là quý vị nên ở chỗ vắng lặng không có ngƣời, tuyệt đối không đƣợc để phụ nữ mới sinh con nhìn thấy, và cũng không để cho lợn và chó nhìn thấy, hay đến gần. “Miệng luôn niệm Phật”: Khi nghiền ba quả này, trong miệng nên niệm ―Nam Mô A Di Đà Phật‘. “Nghiền xong đem hòa với mật trắng, hoặc sữa người”: mật trắng là đƣờng trắng; nếu có đƣờng trắng thì pha với đƣờng trắng hoặc không thì pha với sữa ngƣời. “rồi đắp mắt”: sau khi pha xong thì đắp lên mắt.
“Sữa này phải là của phụ nhân sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái”: nếu nhƣ dùng sữa ngƣời để pha thì cần phải là sữa của ngƣời mẹ sinh bé trai, nếu dùng sữa của ngƣời mẹ sinh bé gái thì không thành. Rồi còn không đƣợc cho phụ nữ mới sinh, chó, mèo, lợn thấy. Vì đơn giản chỗ sinh con, phụ nữ mới sinh và gia súc là nơi ô uế, có mùi ô uế, ngƣời tu hành nên hiểu điều này. Cho nên, ngƣời tu hành không đƣợc nuôi lợn, gà, chó, mèo cũng là vì lý do này, không nên gần gũi những loại này. Giống nhƣ năm ngoái, gần đây họ nuôi 30 con chó trong nhà, đến nay mùi chó vẫn còn trong ngôi nhà đó. Cho nên, ngƣời tu Đạo không nên nuôi chó, mèo, lợn, không nên gần gũi những con vật này.
Tại sao không thể đƣợc để phụ nữ mang thai nhìn thấy? Ở Trung Quốc có một phong tục đó là không đƣợc đến nơi phòng sinh trẻ con, hay còn gọi nơi đó là ‗nguyệt phòng‘, bởi vì trong đó có những thứ ô uế, không đƣợc sạch sẽ nên ở Trung Quốc có loại phong tục này. Đặc biệt là đối với những ngƣời tu pháp Mật tông và trì thần chú nên cần thận chớ đến những nơi này. Bình thƣờng quý vị trì thần chú rất linh nghiệm và hiệu quả, nhƣng nếu quý vị đến nguyệt phòng một lần, thần chú sẽ không còn tác dụng nữa, bởi vì pháp đã bị ô uế! Điều mà câu thần chú sợ nhất là loại bầu không khí bẩn thỉu này, vì vậy những ngƣời tu tập pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn không đƣợc vào nhà sinh nở. Những điều này tôi nói là chân thật, những hành giả phải đặc biệt chú ý.
“Khi hòa thuốc xong”: khi thuốc này đƣợc hòa xong, những hãy chú ý, khi pha chế thuốc xong thì “đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến”: đem chén thuốc đó đặt trƣớc tƣợng bồ tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và trì tụng 108 biến vào, “dùng thuốc ấy đắp vào mắt”: sau đó hãy dùng thuốc đó hàng ngày đắp lên mắt, “trong thời gian 7 ngày”: sau đủ bảy ngày và “bệnh nhân phải ở nơi nhà kín gió”: và ngƣời bị bệnh thì phải ở phòng kín không có gió vào. “Làm như thế, tròng con mắt hư lại sáng, các chứng kia đều lành”: nếu làm đúng nhƣ thế thì các loại bệnh về mắt đều khỏi. “Mắt thấy được tỏ rõ”: mắt sáng so với lúc trƣớc rất nhiều.
※ ※ ※
Sáng hôm nay cũng nhƣ mọi khi, từ sáng sớm đã làm việc Phật sự rất cực khổ. Chúng tôi mỗi ngƣời mỗi ngày đều buổi sáng thì tham thiền, buổi chiều thì tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật, trì chú, buổi tối thì nghe giảng pháp. Còn những lúc bình thƣờng thì rất ít nói chuyện, bởi nói nhiều thì hao tổn ‗khí‘. Tôi giảng kinh cũng là bất đắc dĩ, nếu tôi không giảng cho quý vị thì quý vị sẽ không biết, cho nên hao tổn một chút cũng không sao. Đừng bắt chƣớc tôi, hãy học cách im lặng; đừng nói nhiều, đây là lời khuyên chân thành của tôi.
Hán văn: Nhƣợc hoạn ngƣợc bệnh giả, thủ hổ báo lang bì, chú tam thất biến, phi trƣớc thân thƣợng, tức sai, sƣ tử bì tối thƣợng.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú. Rồi đắp lên mình thì bệnh sẽ khỏi ngay. Như được da sư tử thì càng tốt.) Lược giảng:
“Nếu bị bệnh rét hoặc bị loài ma rét dựa”: giả sử có ngƣời bị mắc bệnh sốt rét. Bệnh sốt rét là nhƣ thế nào? Các cơn sốt rét phát tác ở thời gian nhất định, hoặc bị một ngày một lần, hoặc hai ngày bị một lần, hoặc ba ngày mới bị một lần. Sốt rét một lần một ngày hay còn gọi là sốt rét ngày. Bệnh sốt rét, biểu hiện của nó là nóng lạnh bất thƣờng, nguyên nhân bị bệnh nhiều khi có thể là do bị ma sốt rét nhập dựa hành thân. Khi con ma sốt rét này dựa nhập quý vị, quý vị sẽ cảm thấy rất lạnh. Nhƣng khi con ma sốt rét rời đi thì bệnh nhân lại cảm thấy nhƣ bình thƣờng, loại bệnh này thực sự rất quái ác. Đối với loại sốt rét này, quý vị nên “dùng da hổ, da báo hoặc da sói”: tìm một tấm da hổ, hoặc da báo, hoặc da chó sói; “tụng vào đấy 21 biến chú”: quý vị trì chú Đại Bi 21 biến vào tấm da, “rồi đắp lên mình”: sau đó quý vị đắp tấm da đó lên ngƣời, ―thì bệnh sẽ lành‖: thì bênh sẽ khỏi, con ma rét cũng phải co giờ bỏ chạy mãi. “Như được da sư tử thì càng tốt”: nếu quý vị sử dụng một tấm da Sƣ tử thì sẽ là tốt nhất.
Hán văn: Nhƣợc bị xà thích, thủ bị thích nhân kết ninh, chú tam thất biến, trƣớc thƣơng trung, tức sai, (chú: Ninh tức Nhĩ trung cấu dã.)
(Việt dịch: Nếu bị rắn cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu.) Lược giảng:
“Nếu bị rắn cắn”: nếu nhƣ có ngƣời bị rắn cắn thì nên “dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn”: lấy ráy tai trong tai của ngƣời bị cắn; “tụng chú 21 biến”: tụng vào đấy 21 biến chú Đại Bi. “thoa vào vết thương”: sau đó thoa chỗ ráy đó lên vết thƣơng, “nọc rắn liền tiêu”: thì lọc độc rắn sẽ tiêu trừ.
Hán văn: Nhƣợc hoạn ác ngƣợc nhập tâm, muộn tuyệt dục tử giả, thủ đào giao nhất quả, đại tiểu diệc nhƣ đào quả, thanh thủy nhất thăng hòa, tiễn thủ bán thăng, chú thất biến, đốn báo tận, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một thăng nước trong, sắc còn một nửa, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống trong một lần, bệnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc.) Lược giảng:
“Nếu bị bệnh rét dữ nhập tâm”: bệnh sốt rét nói ở phần kinh văn trên là sốt rét thông thƣờng, không nghiêm trọng lắm, còn bệnh này cũng là sốt rét nhƣng nặng và nghiêm trọng, không phải cách ngày mới bị mà mỗi ngày bị vài ba lần, cho nên nói là ‗nhập tâm‘. “hôn muội sắp chết”: lúc bệnh phát tác, ngƣời này thậm chí còn tuyệt vọng muốn chết, hay có thể hiểu là nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong.
“Dùng một khối mủ cây đào”: quý vị có thể tìm một cây đào, lấy mủ của nó, mủ này thƣờng bám trên thân cây, có màu nâu đỏ rất dẻo và dính; “lớn ước lượng bằng trái đào”: lấy một lƣợng mủ bằng khoảng kích thƣớc giống nhƣ một quả đào. “đem hòa với một thăng nước trong”: đem chỗ mủ đào đó hòa với một thăng nƣớc nƣớc sạch, Nhƣ đã nói ở những phần trên thăng là bằng khoảng 1 lít, có thể bằng một bát, hoặc ba bát. “sắc còn một nửa”: sau đó sắc xong còn lại một nửa. “tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống”: sau đó tụng vào đấy bảy biến chú Đại Bi; “uống trong một lần”: rồi trong một lần uống hết chỗ thuốc đó. Nhƣng hãy nhớ, khi cho ngƣời bệnh uống thuốc tuyệt đối không đƣợc để cho họ biết là thuốc gì, nếu quý vị cho họ biết là thuốc gì thì thuốc sẽ không còn tác dụng, “bệnh sẽ lành”: sau khi uống thuốc xong bệnh sẽ khỏi ngay. “Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc”: khi sắc thuốc không đƣợc cho phụ nữ sắc. Tại sao? Vì đàn bà là Âm, đàn ông là Dƣơng. Sốt rét là bệnh thuộc âm, nếu dùng nam nhân sắc thuốc sẽ có tác dụng, nếu là nữ nhân sắc thuốc, dƣợc tính sẽ giảm đi. Đàn ông thuộc về dƣơng và chỉ có dƣơng mới có thể chế ngự căn bệnh thuộc âm này.
Hán văn: Nhƣợc hoạn truyền thi quỷ khí, phục thi liên bệnh giả, thủ chuyết cụ la hƣơng, chú tam thất biến, thiêu huân tỷ khổng trung, hựu thủ thất hoàn nhƣ thỏ phân, chú tam thất biến thôn, tức sai, thận tửu nhục ngũ tân cập ác mạ, nhƣợc thủ ma na hi la, hòa bạch giới tử, ấn thành diêm, chú tam thất biến, ƣ bệnh nhi sàng hạ thiêu. Kỳ tác bệnh nhi, tức ma xế bính tẩu, bất cảm trú dã. (Chú: Ma Na Hi La tức Hùng Hoàng[1]).
(Việt dịch: Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bệnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 phần hương ước lượng bằng phân thỏ, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bệnh sẽ lành. Cẩn trọng bệnh nhân phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Hi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bệnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Hi La là vị thuốc Hùng Hoàng) Lược giảng:
“Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bệnh”: loại bệnh này đƣợc gọi là căn bệnh tà. Ngƣời phƣơng Tây không tin có loại bệnh này, họ xem đó là chuyện hoang đƣờng, bởi vì ở phƣơng Tây rất ít xảy ra, còn ở Trung Quốc thì lại xảy ra rất nhiều. Tà bệnh tức là lúc đầu ngƣời đang khỏe mạnh thì bị ma nhập vào ngƣời, đây gọi là quỷ trong thân, cũng gọi là phục thi, truyền thi. Nhƣ nơi đó có ngƣời chết, đến nơi đó thì liền bị có ngƣời phát bệnh, đó là do có ma dựa xác ngƣời mà làm cho bị bệnh, thông qua ngƣời còn sống đó để nói chuyện, giọng nói của ngƣời đó cũng giống nhƣ của ngƣời đã chết. Ví dụ, nếu ngƣời chết là một ông già, nhƣng loại quỷ này nhập vào ngƣời nữ, bây giờ thân thể của ngƣời nữ nhƣng lại có giọng nói và tác phong cử chỉ thì là của ông già. Có rất nhiều, rất nhiều căn bệnh nhƣ vậy ở Trung Quốc, căn bệnh đƣợc gọi là do quỷ truyền thi tác quái. Còn Phục Thi là quỷ dựng thây ma, là một ngƣời sống lại sau khi chết vài ngày, nhƣng không phải là ngƣời đó còn sống, mà là một loại linh hồn nào đó đã đến nhập vào xác chết đó. Loại bệnh này ngƣời bình thƣờng không cách nào chữa khỏi, cho ngƣời bệnh uống thuốc gì cũng không trị khỏi, cho nên gọi căn bệnh này là Truyền Thi Quỷ Khí.
“Dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến”: lấy An Tức hƣơng, niệm chú Đại Bi 21 biến; “đốt xông vào lỗ mũi”: sau đó đốt hƣơng rồi xông vào lỗ mũi ngƣời bệnh. “Lại lấy 7 phần hương lớn ước lượng bằng phân thỏ, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bệnh sẽ lành”: sau đó lại dùng An Tức hƣơng nắn lại thành bảy viên thuốc mỗi viên to bằng phân thỏ, từng viên từng viên lại trì chú Đại Bi 21 biến nữa, rồi cho ngƣời bệnh uống thì bệnh sẽ lành. “Cẩn trọng bệnh nhân phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân và mắng chửi”: cẩn trọng tức là kiêng cữ, đoạn tuyệt, kiêng cữ ăn thịt, uống rƣợu, ăn ngũ vị tân (Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu) và mắng chửi ngƣời khác.
“Một phương pháp nữa”: lại có một phƣơng pháp khác, đó là nhƣ thế nào? Sử dụng Ma Na Hi La, Ma Na Hi La là vị thuốc Hùng Hoàng ở Trung Quốc, vị thuốc này chuyên dùng để xua đuổi côn trùng, rắn rất sợ loại thuốc này, vị thuốc cũng dùng để ngâm rƣợu, ngày tết uống rƣợu Hùng Hoàng. “hòa với Bạch giới tử và muối hột”: đem Hùng Hoàng trộn với Bạch Giới Tử và muối hột. Bạch Giới Tử là một loại hạt thuộc họ cải, ấn thành diêm là tên một loại muối (nhưng có thể dùng muối hột). “gia trì chú 21 biến”: sau khi trộn 3 vị này với nhau thì tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi, “rồi đem xông đốt dưới giường người bệnh”: rồi đem đặt dƣới giƣờng ngƣời bệnh rồi đốt lên, đốt ở đây là đốt cho có khói xông lên, “quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở”: đốt xông nhƣ thế quỷ liền co giờ bỏ chạy, không dám ở lại, không dám làm cho ngƣời bị bệnh nữa.
[1] Hùng hoàng (khoáng vật có sắc vàng dùng làm thuốc, có thể giải độc trong đông y còn có tên gọi khác là Hùng Tinh, Kê Quan Thạch)
Hán văn: Nhƣợc hoạn nhĩ lủng giả, chú hồ ma du trƣớc nhĩ trung, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị tai bệnh bị điếc, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bệnh sẽ lành.) Lược giảng:
“Nếu có bệnh về tai, bị điếc, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bệnh sẽ lành”: nếu có ai bị điếc hay mắc bệnh về tai, đoạn này kinh văn không nói đến tụng bao nhiêu biến thần chú. Nhƣng tốt nhất là nên tụng 21 biến chú Đại Bi vào dầu mè rồi đem nhỏ vào trong tai thì bệnh sẽ lành. Điếc là căn bênh y học gần nhƣ không chữa đƣợc, vậy mà chú Đại Bi chữa đƣợc. Quý vị có tin không, kỳ diệu vậy đó.
Hán văn: Nhƣợc hoạn nhất biên thiên phong, nhĩ tỷ bất thông, thủ khƣớc bất tùy giả, thủ hồ ma du, tiễn thanh mộc hƣơng, chú tam thất biến, ma thức thân thƣợng, vĩnh đắc trừ sai, hựu phƣơng, thủ thuần ngƣu tô, chú tam thất biến ma, diệc sai. (Việt dịch: Nếu bị chứng thiên phong, liệt nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi. Dùng dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương. Gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bệnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bệnh cũng sẽ lành.) Lược giảng:
“Nếu bị chứng thiên phong”: Thiên Phong là chứng bệnh gì, là chứng bệnh trúng gió, dẫn đến bán thân bất toại, tức là liệt nửa ngƣời, hoặc là tay chân không thể cử động, còn gọi chứng bệnh phong hàn hay đột quỵ. “liệt nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi”: chứng bệnh này dẫn đến liệt nửa ngƣời, tai không nghe đƣợc, mũi không ngửi đƣợc mùi vị. Bệnh nhƣ thế này thì trị nhƣ thế nào? “Dùng dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương”: Thanh Mộc Hƣơng là một vị thuốc, lấy một phần dầu mè và một phần Thanh Mộc Hƣơng rồi đem đun lên. “Gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình”: sau đó niệm chú Đại Bi 21 biến vào chỗ thuốc đó rồi đem thoa nơi thân ngƣời bệnh thì “bệnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ”. “Lại một phương pháp nữa”: lại có một phƣơng pháp chữa khác đó là “dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bệnh cũng sẽ lành”: Ngƣu tô là sữa bò, dùng sữa lấy từ con bò rồi gia trì vào đó 21 biến chú Đại Bi rồi thoa cho ngƣời bệnh thì bênh cũng sẽ khỏi.
Hán văn: Nhƣợc hoạn nan sản giả, thủ hồ ma du, chú tam thất biến, ma sản phụ tề trung, cập ngọc môn trung, tức dị sanh.
(Việt dịch: Nếu sản phụ khó sanh, mau dùng dầu mè rồi gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rốn và ngọc môn, liền được dễ sanh.)
Lược giảng:
“Nếu sản phụ khó sanh”: nếu ngƣời sản phụ khó sanh,
sanh con không dễ dàng, “mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rốn và ngọc môn, liền được dễ sanh”: nên lấy dầu mè rồi gia trì vào đó 21 biến chú rồi xoa nơi rốn và huyệt Ngọc Môn thì sản phụ liền dễ sinh.
Hán văn: Nhƣợc phụ nữ hoài nhâm, tử tức phục trung, thủ a ba mộc lợi gia thảo nhất đại lƣợng, thanh thủy nhị thăng hòa, tiễn thủ nhất thăng, chú tam thất biến phục, tức xuất, nhất vô khổ thống, thai y bất xuất giả, diệc phục thử dƣợc, tức sai. (Chú: A ba mộc lợi gia thảo. Ngƣu tất thảo dã)
(Việt dịch: Nếu phụ nữ có thai, thai nhi chết trong bụng. Dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai thăng nước trong, sắc còn một thăng. Gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, sản phụ không một chút đau đớn. Hoặc nhau thai không ra, cũng uống thuốc này bệnh sẽ hết (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất)
Lược giảng:
“Nếu phụ nữ có thai, thai nhi chết trong bụng”: nếu có phụ nữ mang thai, mà thai bị hƣ, thai nhi chết trong bụng; “dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai thăng nước trong, sắc còn một thăng”: A Ba Mộc Lợi Đà là vị thuốc Ngƣu Tất, dùng vị thuốc Ngƣu Tất cho vào hai thăng (2 lít) nƣớc sạch rồi đem sắc lên cho còn lại một thăng (1 lít). Ví dụ dùng 2 hai chén nƣớc thì sắc còn một chén. “Gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhân không một chút đau đớn”: sau đó lại tụng vào chỗ thuốc vừa sắc xong 21 biến chú rồi đem cho ngƣời sản phụ uống thì cái thai liền ra mà sản phụ không một chút đau đớn. “Hoặc nhau thai không ra, cũng uống thuốc này bệnh sẽ hết”: hoặc có ngƣời sản phụ mà sau khi sinh nhau thai không ra, hay còn gọi là sót nhau thai thì cũng làm thuốc y nhƣ trên thì nhau thai cũng ra.
Hán văn: Nhƣợc tốt hoạn tâm thống bất khả nhận giả, danh độn thi chú, thủ quân trụ lỗ hƣơng, nhũ đầu thành giả nhất khỏa, chú tam thất biến, khẩu trung tƣớc yết, bất hạn đa thiểu, lịnh biến thổ, tức sai, thận ngũ tân tửu nhục. (Chú: quân trụ lỗ hƣơng: huân lục hƣơng dã.)
(Việt dịch: Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không nổi, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng Quân Trụ Lỗ, lấy quả đã chín có mùi sữa, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bệnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương.) Lược giảng:
“Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không nổi, đây gọi là chứng độn thi chú”: Độn Thi chú là gì? Là một loại bệnh do tà quỷ gây ra, quỷ nhập vào thân ngƣời sau đó làm cho ngƣời này đau thấu tận tim gan; “nên dùng Quân Trụ Lỗ”: Quân Trụ Lỗ chính là vị thuốc Huân Lục Hƣơng hay Nhũ hƣơng cũng là của loại thuốc, “lấy quả đã chín có mùi sữa”: loại quả này khi chín thì có một mùi hƣơng sinh ra mùi giống nhƣ sữa; “tụng chú vào 21 biến”: sau đó tụng vào đó 21 biến chú, mỗi quả tụng 21 biến chú Đại Bi. “rồi để trong miệng nhai nuốt”: rồi dùng đem quả đó nhai sau đó nuốt, hoặc nhai rồi ngậm nơi yết hầu rồi sau đó nuốt; “không hạn nhiều ít”: không giới hạn là ăn nhiều hay ít, không có số lƣợng.
“Chừng nào mửa được mới thôi”: ăn quả đã đƣợc trì chú đó đến khi nôn mửa, nôn mửa ra cặn bã thì mới thôi không ăn nữa; “y như thế bệnh sẽ lành”: nếu làm đúng nhƣ thế bệnh sẽ lảnh. “song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt”: nhƣng nên nhớ một điều? Đó là không ăn ngũ vị tân, các loại cay nồng và không uống rƣợu, không ăn thịt.
Hán văn: Nhƣợc bị hỏa thiêu sang, thủ nhiệt cù ma di, chú tam thất biến, đồ sang thƣợng, tức sai. (Chú nhiệt cù ma di, điểu ngƣu thi)
(Việt dịch: Nếu bị bỏng lửa thành lở loét, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bệnh sẽ lành.) Lược giảng:
“Nếu bị bỏng lửa thành lở loét”: nếu nhƣ không may bị lửa đốt đến bỏng, vết bỏng bị lở loét; “dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa”: lấy phân con trâu đen rồi tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi rồi thoa lên chỗ lở loét thì bệnh sẽ lành.
Hán văn: Nhƣợc hoạn hồi trùng giảo tâm, thủ cốt lỗ mộc già bán thăng, chú tam thất biến phục, tức sai, trọng giả nhất thăng, trùng nhƣ lệ sách chu lai. (Chú: Cốt lỗ mộc già, bạch mã niệu dã).
(Việt dịch: Nếu bị loại giun sán cắn nơi tim, dùng nửa thăng nước tiểu con ngựa bạch, như bệnh nặng thì một thăng, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây, bệnh sẽ lành.) Lược giảng:
“Nếu bị loài giun, sán cắn nơi tim”: Có rất nhiều ngƣời rất gầy, tại sao những ngƣời đó lại gầy nhƣ vậy? Bởi vì trong bụng những ngƣời đó có rất nhiều giun, sán. Những ngƣời đó ăn bao nhiêu chất dinh dƣỡng cũng bị loài giun, sán hút hết chất dinh dƣỡng Khi có nhiều ngƣời gầy trong bụng có sán. Rồi những ngƣời nhƣ vậy rất hay đau bụng, đó là do có giun sán chú ngụ ở trong ruột vậy.
Có rất nhiều loại giun, nhƣng có loại giun đũa đặc biệt thông minh, chúng thông minh đến mức nào? Chúng ở trong bụng ngƣời, chúng hiểu con ngƣời nói chuyện, nó biết tâm tƣ quý vị muốn làm gì? Chính vì vậy mà Tục ngũ có câu: ‗bạn không phải là giun đũa trong bụng của tôi, bạn làm sao biết đƣợc tâm của tôi?‘, từ điều này có thể hiểu giun đũa biết quý vị suy nghĩ điều gì, muốn làm gì. Loại giun này, ngay cả khi quý vị uống sổ giun vào cũng không cách nào tiêu diệt đƣợc chúng. Tại sao? Nếu nhƣ quý vị uống thuốc mà không biết mình uống thì giun mới bị nhiễm thuốc, còn quý vị chủ ý uống thuốc thì giun sẽ biết, giun mà biết thì thuốc sẽ không có tác dụng. Vì giun ở trong bụng quý vị, chúng biết quý vị uống thuốc nên chúng không ăn, vậy nên thuốc sẽ không có tác dụng. Đôi khi có giun còn biết nói, nhƣ tôi đã kể trƣớc đây, có một bà lão ở Hồng Kông, trong bụng bà ta có một thứ gì đó có thể nói chuyện đƣợc. Đó không phải là loài giun đũa thông thƣờng, mà là nhƣ một loại quái vật. Loại giun đũa này có cấu tạo rất đặc biệt để cƣ trú và cắn tim ngƣời. Khi nó cắn vào tim quý vị, quý sẽ bị đau tim không chịu nổi. Vậy phải điều trị bằng cách nào?
“Dùng nửa thăng nước tiểu con ngựa bạch”: lấy nửa thăng (0,5 lít) nƣớc tiểu của con ngựa bạch; “gia trì chú 21 biến”: sau đó tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi; “như bệnh nặng thì một thăng”: nếu nhƣ bênh nặng thì uống một thăng (1 lít), cứ tăng gấp đôi là đƣợc.
“Uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây, bệnh sẽ lành”: sau khi uống thuốc vào thì loài trùng quyện ra nhƣ sợi dây, bởi vì có rất nhiều con chứ không phải một con. Khi chúng chui ra miệng con này sẽ cắn đuối con kia, con này cắn con kia mà ra trông giống nhƣ sợi dây, từ cách đại tiện mà theo phân. Bệnh sẽ lành.
Hán văn: Nhƣợc hoạn đinh sang giả, thủ lăng tiêu diệp, giã thủ trấp, chú tam thập biến, lịch trƣớc sang thƣợng, tức bạt căn xuất, lập sai. (Chú: Lăng Tiêu Diệp tức Tử Oai diệp.)
(Việt dịch: Nếu bị bệnh mụn ghẻ đinh, dùng lá Lăng Tiêu giã lấy nước. Gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành.)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh mụn ghẻ đinh”: bệnh mụn ghẻ đinh là nhƣ thế nào, nói đúng hơn là một cái mụn lớn. Phía da xung quanh nhƣ bị mề đay, bầm tím và sứng tấy, bên trong mụn thì nhƣ có cái đinh. Cái mụn này nhƣ cái đinh cắm vào trong thịt của quý vị, thậm chí đóng cả vào trong xƣơng, nó rất cứng. Phía đầu trên của mụn thì bị lở loét, thối rữa; “dùng lá Lăng Tiêu giã lấy nước”: Lăng Tiêu là một loại dƣợc liệu, lấy lá Lăng Tiêu giã nát ra rồi vắt lấy nƣớc. “Gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền trồi ra mà lành”: sau đó tụng 21 biến chú Đại Bi vào nƣớc và dùng vải thấm nƣớc thuốc mà thoa lên chỗ bị mụn nhọt, thì mụn nhọt đƣợc nhổ tận gốc, trồi gốc mụn ra thì liền lành bệnh.
Hán văn: Nhƣợc hoạn nhăng thích nhãn trung, cốt lỗ hằng khiếp lự thủ trấp, chú tam thất biến, dạ ngọa trƣớc nhãn trung, tức sai. (Chú: Cốt lỗ hằng khiếp, tân lƣ thi dã)
(Việt dịch: Nếu loài ruồi độc cắn vào mắt. Dùng phân mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú. Đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bệnh sẽ lành.)
Lược giảng:
“Nếu loài ruồi độc cắn vào mắt”: loại ruồi này chúng có chất độc, nếu không may bị loài ruồi này cắn vào mắt. “Dùng phân mới của con lừa, vắt lấy nuớc”: lấy phân của con lừa khi mà nó vừa mới đại tiện xong, đem vắt lấy nƣớc. Cũng tụng “21 biến chú” vào chỗ nƣớc vừa mới vắt đƣợc đó. “Đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bệnh sẽ lành”: sau đó ban đêm trƣớc khi đi ngủ thì đem chỗ nƣớc đã đƣợc gia trì đó nhỏ lên mắt thì bệnh sẽ khỏi.
Hán văn: Nhƣợc hoạn phúc trung thống, hòa tỉnh hoa thủy, hòa ấn thành diêm tâm thất khỏa, chú tam thất biến, phục bán thăng, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị đau bụng, dùng nước tỉnh hoa thủy hòa với 21 hột muối hột, tụng 21 biến chú vào, lấy nửa thăng mà uống, liền hết đau.) Lược giảng:
“Nếu bị đau bụng”: nếu bị bệnh đau bụng, “dùng nước tỉnh hoa thủy hòa với 21 hạt muối hột”: Tỉnh hoa thủy là loại nƣớc suối, nƣớc ở giếng vào buổi sáng có vị ngọt không độc, hay nƣớc đƣợc lấy buổi sáng sớm, đặc biệt lấy nƣớc từ núi, khe suối. Lấy loại nƣớc này hòa với 21 hạt muối; “tụng 21 biến chú vào”: sáu đó tụng vào nƣớc muối đó 21 biến chú Đại Bi, “lấy nửa thăng mà uống, liền hết đau”: lấy nửa thăng nƣớc muối, đại khái là khoảng hơn một bát mà uống thì bệnh sẽ khỏi. (Nếu không có nước tỉnh hoa thủy thì dùng nước sạch không trùng).
Hán văn: Nhƣợc hoạn xích nhãn giả, cấp nhãn trung hữu nỗ nhục, cấp hữu ế giả, thủ xa xa di diệp, đảo lƣ thủ trấp, chú tam thất biến, tẩm thanh tiền nhất túc, cánh chú thất biến, trƣớc nhãn trung, tức sai.(Chú: Xa xa di diệp, câu kỷ diệp dã.)
(Việt dịch: Nếu bị bệnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mắt có những đốm trắng. Dùng lá Xa Xa Di giã nát lấy nước. Gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền bằng đồng thau vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bệnh sẽ lành (chú thích: Xa xa di là lá Kỷ Tử).)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh đau mắt đỏ”: niệm chú Đại Bi chữa bệnh về mắt rất hiệu nghiệm, bệnh đau mắt đỏ là mắt có màu đỏ, mắt vốn hai phần đen trắng phân minh nhƣng nay nhiều phần trắng đã chuyển sang màu đỏ, “mắt lồi thịt”: hay trong mắt có một cục thịt nhô ra, “mắt có những đốm trắng”: hoặc nhƣ trên con ngƣơi màu đen lại có những đốm màu trắng. “Dùng lá Xa Xa Di giã nát lấy nước”: Xa Xa Di là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc gọi là Kỷ Tử, là loại mà ngƣời Trung Quốc hay dùng để nấu canh, sau đó giã nát ra, dùng vải xô để lọc lấy nƣớc. “Gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền bằng đồng thau vào ngâm một đêm”: tụng vào nƣớc đó 21 biến chú Đại Bi, sau đó bỏ một vài đồng tiền xu bằng đồng thau vào và ngâm qua đêm, “tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa”: sáng hôm sau lấy tiền xu ra và tụng vào đấy 7 biến chú nữa. “Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bệnh sẽ lành”: dùng thuốc này nhỏ lên mắt thì bệnh sẽ khỏi.
Hán văn: Nhƣợc hoạn úy dạ bất an, khủng bố xuất nhập kính phạ giả, thủ bạch tuyền tác sách, chú tam thất biến, tác nhị thập nhất kiết, hệ hạng, khủng bố tức trừ, phi đản trừ bố, diệc đắc diệt tội.
(Việt dịch: Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên. Lấy chỉ trắng kết thành dây, gia trì chú 21 biến, buộc thành 21 thắt rồi đeo nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội.) Lược giảng:
“Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên”: hoặc giả có ngƣời có chứng bệnh sợ bóng tối, nên vào ban đêm thì nỗi sợ lại ấp đến. Cho đến đi vệ sinh cũng sợ, vào ban đêm thì luôn nơm nớp lo sợ. “Lấy chỉ trắng kết thành dây”: tìm một vài sợi chỉ trắng và xoắn chúng thành một sợi dây, ít nhất là năm sợi; sợi dây sẽ đƣợc kết từ năm sợi chỉ trắng. “gia trì chú 21 biến”: sau đó lại tụng 21 biến chú, “buộc thành 21 thắt rồi đeo nơi cổ”: tiếp đến buộc sợi dây thành 21 nút buộc và dùng để đeo nơi cổ; “thì tật ấy sẽ dứt”: làm đúng nhƣ thế thì sẽ trừ đƣợc tật sợ bóng tối. “Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội”: làm đúng nhƣ pháp, đeo sợi dây ấy nơi cổ, chẵng những sẽ trừ đƣợc tật sợ bóng tối mà còn có thể tiêu trừ đƣợc nghiệp chƣớng, tội lỗi của bản thân. (Phần này kinh văn hay giảng giải không đề cập đến tụng hết 21 biến chú rồi buộc sợi dây 21 thắt hay tụng một biến thì buộc một thắt, nhưng y theo phần kinh văn trên thì hành giả nên tụng trước 21 biến sau đó lại tụng một biến thì buộc một nút thắt).
Hán văn: Nhƣợc gia nội hoành khởi tai nạn giả, thủ thạch lựu chi, thốn tiệt nhất thiên bát đoạn, lƣỡng đầu đồ tô lạc mật, nhất chú thiêu, tận thiên bát biến, nhất thiết tai nạn, tất giai trừ diệt, yếu tại Phật tiền tác chi.
(Việt dịch: Nếu trong nhà sanh nhiều tai họa. Dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật và tô lạc. Sau đó tụng một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi đốt hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ, chú ý phải làm trước tượng Phật.) Lược giảng:
“Nếu trong nhà sanh nhiều tai họa”: giả sử trong nhà thƣờng xuyên xảy ra tai họa, chuyện không nhƣ ý nhƣ trộm cƣớp, hỏa hoạn, hoặc là nhiều loại tai nạn khác. “Dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc”: lấy một cành gỗ của cây lựu đem chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn ƣớc chừng một tấc (1 tấc bằng khoảng 10cm), “mỗi đoạn 2
5 đầu đều thoa mật và tô lạc ”: hai đầu của mỗi nhánh cây cắt ra đều phải bôi tô lạc và mật ong. “sau đó tụng một biến chú, liền đốt một đoạn”: sau đó cứ tụng xong một biến chú Đại Bi thì đốt một nhánh cây, “khi đốt hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ”: 1080 nhánh cây thì tụng 1080 biến chú và đốt 1080 lần, làm đúng nhƣ thế tất cả tai họa sẽ tiêu trừ, “chú ý phải làm trước tượng Phật”: nhƣng phải nhớ là làm trƣớc tƣợng Bồ tát Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay.
Hán văn: Nhƣợc thủ bạch xƣơng bồ, chú tạm thất biến, hệ trƣớc hữu tị thƣợng, nhất thiết đấu xứ, luận nghĩa xứ, giai đắc thắng tha.
(Việt dịch: Dùng một nhánh Bạch Xương Bồ, trì vào 21
5 Tô lạc: Là một loại thức ăn của ngƣời Ấn Độ đƣợc chế biến từ sữa tƣơi nguyên chất, từ sữa tƣơi chế biến ra Lạc rồi từ Lạc chế biến sinh ra Tô, Tô lạc giống món ăn bơ, pho mát
biến chú, đeo nơi cánh tay phải thì tại các nơi đấu tranh, luận nghị đều được thắng lợi.)
Lược giảng:
“Bạch Xương Bồ” là cây xƣơng bồ trắng, là một loại thảo dƣợc. Quý vị lấy 1 nhành của cây Xƣơng Bồ trắng rồi “gia trì chú 21 biến chú” và “đeo nơi cánh tay phải”: Buộc nhánh Xƣơng Bồ đó vào cánh tay hoặc bắp tay của tay phải. Nếu làm nhƣ thế thì “ở các nơi đấu tranh”: quý vị đi đến nơi nào cùng ngƣời tranh đấu, hoặc “luận nghị”: là cùng ngƣời khác bàn luận giải đạo lý, “đều được thắng lợi”: cho dù tranh luận với ai cũng thắng, cũng đều đƣợc hơn ngƣời, đƣợc tài hùng biện thông suốt, không trở ngại.
Hán văn: Nhƣợc thủ xa xa di diệp, câu kỷ thốn tiệt, lƣỡng đầu đồ chân ngƣu tô, bạch mật ngƣu tô, nhất chú nhất thiêu, tận nhất bát đoạn, nhật biệt tam thời, thời biệt nhất thiên bát thiên, mãn thất nhật, chú sƣ tự ngộ thông trí tuệ dã.
(Việt dịch: Nếu muốn được trí huệ. Nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất. Dùng sữa ngưu tô hòa với bạch mật sau đó tụng một biến chú thì đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thực hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ.) Lược giảng:
“Nếu muốn được trí huệ”: nếu quý vị muốn đắc trí huệ túc mạng thông, thì nên tu pháp này. Pháp này là mật pháp, pháp bí mật của mật tông. Mật Pháp thì không thể giảng bừa, không thể rộng nói đƣợc, nhƣng Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni cũng đã giảng rồi. Đây là mật pháp phải đốt đồ, vì sao phải đốt đồ vật? Trong Phật Giáo Mật tông có một loại pháp gọi là Hộ Ma, đó là dùng nhiều thứ khác nhau để đốt nhƣ quần áo, y phục, vàng bạc, đá quý hay bơ sữa cho đến những thứ ăn đƣợc, đều đem đốt đi.
Nhƣng Mật Tông có những vị thầy lợi dụng pháp này để chuộc lợi. Họ bảo những để tử hãy đem nhẫn ra đốt, hay những thứ nào giá trị càng cao thì công đức càng lớn. Ông ta giả bộ chỉ cần ngồi đó, cầm chuông lên, và chỉ niệm chú “ù ù ù” nhƣ thế này để tăng thêm sự mầu nhiệm. Vì vậy, quý vị đốt chiếc nhẫn vàng của mình và nhiều thứ khác trong đó. Sau khi đốt xong, bất kể đốt hay không đốt, thầy Mật tông đều có thể lấy ra bán, họ sẽ dạy quý vị đốt vàng bạc càng quý thì công đức càng nhiều.
Có nhiều ngƣời mê muội, có lẽ đang ngủ say nên chƣa tỉnh, họ không phân biệt đƣợc nhƣ thế nào là thật hay là giả? Cũng không biết là mơ hay là tỉnh? Cho nên những ngƣời đó tin rằng đốt vàng, hoặc đồ quý giá có công đức. Những trƣờng hợp này tôi gặp rất nhiều. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ hiện nay không có tình trạng nhƣ vậy, và không có loại Phật giáo Mật tông nhƣ vậy, nhƣng trong tƣơng lai sẽ có. Hoặc có những thầy truyền các tín đồ rằng: ‗Các ngƣời sau này cũng sẽ làm bậc thầy kim cƣơng thƣợng sƣ, vậy hãy đem đồ quý giá để đốt đi thì mới có nhiều công đức‘. Sau đó họ sẽ lấy số đồ quý giá đó đem đi bán để kiếm tiền. Tôi thì không biết phƣơng pháp này, cho nên không có bản lĩnh trong việc này.
“Nên dùng nhánh Xa Xa Di”: Xa Xa Di là là cây Câu Kỳ Tử (Kỳ Tử), ‗nhánh‘ là nhánh và cành của nó. “chặt thành 1080 đoạn”: cắt làm từng đoạn, từng đoạn, thành 1080 đoạn. “Mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất”: mỗi đoạn cây cắt đƣợc thì hai đầu đều đƣợc thoa sữa bò. “Dùng sữa ngưu tô hòa với bạch mật”: Dùng sữa bò hòa với đƣờng trắng để đốt, giống nhƣ trong Pháp Hộ Ma dùng mì, thức ăn, quần áo để đốt. Nhƣng nếu quý vị dùng vàng để đốt thì không đƣợc đâu, bởi vì cho dù quý vị có đốt vàng thì nó cũng không cháy, vậy nên nếu quý vị đốt vàng thì thật vô ích. Để tôi nói cho quý vị biết, nếu trong tƣơng lai có ai đó yêu cầu quý vị đốt vàng, đó sẽ là một lời nói dối, quý vị đừng có tin. Tại sao? Điều đó không cần thiết chút nào! Bởi Pháp này phải đƣợc đốt bằng sữa bò hòa đƣờng trắng.
“Tụng một biến chú thì đốt một đoạn”: niệm chú Đại Bi một biến đốt một đoạn, “đốt 1080 đoạn”: đốt đến hết 1080 đoạn, ở đây là 1080 đoạn chứ không phải là 1008 đoạn, nó cũng dựa trên có số 108, tức là quý vị sẽ phải tụng 10 lần của 108 biến chú. “Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời”: trong một ngày thì chia ra làm ba thời khóa, “mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn”: mỗi thời khóa niệm 1080 biến và đốt 1080 đoạn. “Thực hành đúng 7 ngày”: thực hành liên tục trong bảy ngày, cho đến ngày thứ bảy là mãn. “Chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ”: Chú sƣ là ngƣời thực hành pháp, thông ngộ là chính là tự mình khai ngộ. Thông trí chính là túc mạng thông trí huệ. Nếu bạn thành tâm thì sẽ đắc đƣợc túc mạng thông, và ngƣợc lại nếu không thành tâm thì bạn sẽ không khai trí tuệ, nên không đƣợc trí tuệ túc mạng thông.
Hán văn: Nhƣợc dục giáng phục đại lực quỷ thần giả, thủ a lợi sắt ca sài, chú thất thất biến, hỏa trung thiêu, hoàn tu đồ tô lạc mật, tu yếu ƣ đại bi tâm tƣợng tiền tác chi. (Chú: A lợi sắt ca sài tức mộc hoạn tử)
(Việt dịch: Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần. Dùng cây A Lợi Sắc Ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đối trước tượng Đại Bi, gia trì 49 biến chú, rồi đốt trong lửa sẽ hàng phục được đại lực quỷ thần.) Lược giảng:
Quỷ thần thì có rất nhiều loại, nhƣ quỷ thần bình thƣờng, quỷ thần oai lực lớn, đại lực quỷ thần,… Đại lực quỷ thần thần thông đặc biệt lớn, thần thông biến hóa, không ai có thể hàng phục đƣợc. Nhƣng nếu quý vị muốn hàng phục quỷ thần oai lực lớn hay đại lực quỷ thần, hãy “dùng cây A lợi sắc ca”: A lợi sắc ca chính là cây Mộc Hoạn Tử[1], Mộc Hoạn Tử là một loại củi, “thoa sữa tô lạc và mật vào”: thoa tô lạc và mật ong vào cành cây, “đối trước tượng Đại Bi”: đối trƣớc tƣợng bồ tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, phƣơng pháp này phải đối trƣớc Bồ tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn mới có hiệu quả, “gia trì 49 biến chú”: trì tụng 49 biến chú Đại Bi, “rồi đốt trong lửa”: rồi đem cành cây đó đốt đi. Làm đúng pháp nhƣ thế sẽ “hàng phục được đại lực quỷ thần”.
[1] Mộc hoạn tử: Cây thân gỗ rất cao, quả và vỏ đều chế làm thuốc tắm, có tính chất bỏ đi những thứ vết bẩn giống nhƣ cục xà bông; quả của nó tròn lại cứng, đen nhƣ sơn bóng có thể dùng hạt châu niệm phật. Nó còn có tên Du Châu Tử, bồ đề tƣ, vô hoạn tử. (Bản Thảo Cƣơng Mục, Lý Thời Trân nhà Minh).
Hán văn: Nhƣợc thủ hồ lô già na nhất đại lƣợng, trƣớc lƣu ly bình trung, trí đại bi tâm tƣợng tiền, chú nhất bách bát biến, đồ thân điểm ngạch, nhất thiết thiên long quỷ thần, nhân cập phi nhân, giai tất hoan hỉ dã. (Chú: Hồ lô giá na tức ngƣu hoàng dã).
(Việt dịch: Nếu lấy một lượng Hồ Lô Giá Na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhân trông thấy đều hoan hỉ (Hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng) Lược giảng:
“Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na”: Hồ Lô Giá Na chính là vị thuốc Ngƣu Hoàng, hán văn dùng từ một đại lƣợng, nghĩa là hơn một lƣợng hoặc hai lƣợng (1 lượng = 0.0375 kg).
Ngƣu Hoàng rất đắt, hơn một lƣợng hay hai lƣợng thì chi phí tối thiểu khoảng 500 tệ. “Đem đựng trong bình lưu ly”: bình lƣu ly là bình bằng thủy tinh hay pha lê, rồi đem Ngƣu Hoàng bỏ vào đó, “để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến”: sau đó đặt chiếc bình lƣu ly đó đặt trƣớc tƣợng, hoặc ảnh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng 108 biến chú Đại Bi, “rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân”: sau khi tụng chú xong thì dùng thuốc xoa lên và trên thân thể thì “tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhân trông thấy đều hoan hỉ”: tất cả thiên nhân, rồng, quỷ thần, ngƣời hay những loài không phải ngƣời khi nhìn thấy quý vị thì đều sinh tâm hoan hỉ, không nhiễu hại quý vị.
Hán văn: Nhƣợc hữu thân bị già tỏa giả, thủ bạch cáp phân, chú nhất bách bát biến, đồ ƣ thủ thƣợng, dụng ma già tỏa, già tỏa tự thoát dã.
(Việt dịch: Nếu thân bị xiềng xích, dùng phân của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự đứt gãy.) Lược giảng:
“Nếu thân bị xiềng xích”: giả sử nhƣ có ai bị xiềng xích, gông cùm trói buộc, “dùng phân của con bồ câu trắng”: lấy phân của con chim bồ câu trắng, “gia trì chú 108 biến”: rồi tụng vào đó 108 biến chú Đại Bi. “tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng”: tụng xong thì đem xoa phân lên tay và dùng tay ấy xoa cả vào gông cùm, khi tay chạm vào gông cùm thì “gông xiềng sẽ tự đứt gãy”: gông cùm sẽ tự nhiên đứt gãy mà rơi ra.
Hán văn: Nhƣợc hữu phu phụ bất hòa, trạng nhƣ thủy hỏa giả, thủ uyên ƣơng vĩ, ƣ đại bi tâm tƣợng tiền, chú nhất thiên bát biến, đới bỉ, tức chung thân hoan hỉ tƣơng ái kính.
(Việt dịch: Nếu vợ chồng bất hòa, như nước lửa, dùng lông đuôi chim uyên ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời kính trọng, thương yêu nhau.) Lược giảng:
“Nếu vợ chồng bất hòa, như nước lửa”: Đạo chồng vợ thuộc về luân thƣờng trong ngũ luân, vợ chồng nên hòa thuận với nhau. Giả sử họ không hòa hợp thì hoặc có thể do nghiệp chƣớng nặng nề, oan trái nghiệp chƣớng gặp nhau hay do một số ma quỷ tác quái, phá hủy mối quan hệ, khiến vợ chồng nhƣ nƣớc với lửa. “Dùng lông đuôi chim Uyên ương”: dùng lông đuôi của hai con chim uyên ƣơng, buộc lại với nhau. “Đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình”: sau đó đối trƣớc tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát thành tâm tụng 1.080 biến chú Đại Bi rồi đeo lông chim đó trong ngƣời. “Tất vợ chồng trọn đời kính trọng, thương yêu nhau”: nếu làm đúng pháp nhƣ thế thì vợ trọng trọn đời yêu thƣơng, kính trọng nhau. (Phần này không nói đến 2 lông đuôi như thế nào, nhưng theo ngu ý của người dịch thuật là dùng 1 lông đuôi của 1 con chim đực và 1 lông đuôi của 1 con chim cái).
Hán văn: Nhƣợc hữu bị trùng thực điền miêu, cập ngũ quả tử giả, thủ tịnh hôi tịnh sa, hoặc tịnh thủy, chú tam thất biến, tán điền miêu điền biên, trùng tức thối tán dã, quả thọ kiêm chú thủy, sái trƣớc thọ thƣợng, trùng bất cảm thực quả dã.
(Việt dịch: Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ
phá hoại, dùng tro, cát sạch và nước trong, gia trì 21 biến chú, rải trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại.)
Lược giảng:
“Nếu ruộng gieo lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ phá hoại”: giả sử có ngƣời làm ruộng hay vƣờn cây ăn trái, ruộng vƣờn gieo cây giống, táo, cam, các loại trái cây khác, nếu ruộng vƣờn bị côn trùng, sâu bọ phá hoại thì rất nguy hiểm, chúng sẽ tàn phá, ăn sạch hoa màu, trái cây nếu côn trùng phát sinh thì rất nguy hiểm, liền bị ăn hết trái cây, “dùng tro, cát sạch và nước trong”: nên lấy tro sạch, cát sạch, hoặc nƣớc sạch rồi “gia trì 21 biến chú”: tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi. “rải trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại”: sau đó nƣớc thì đem phun lên trên cây, nếu phun lên cây thì sâu bọ sẽ không dám ăn trái cây, đem tro và cát rải xung quanh vƣờn, xung quanh ruộng thì sâu bọ sẽ chạy trốn, không dám ở lại và cũng sẽ không dám tiến vào phá hoại nữa.
Hán văn: Phật cáo A-nan, nhƣợc hữu phú nhiêu chủng chủng trân bảo tƣ cụ giả. Đƣơng ƣ nhƣ ý châu thủ.
(Việt dịch: Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý.
Chân ngôn rằng: Án–, phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.)
Lược giảng:
Phần kinh văn này Đức Phật dạy về Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn Pháp. Đức Phật dạy A-nan: “Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng”: nếu nhƣ ai muốn giàu có, có nhiều của cải, châu báu, nhiều vật dụng, tiền bạc dƣ thừa, cuộc sống sung túc, “nên cầu nơi tay cầm châu như ý”: Châu Nhƣ ý là viên ngọc nhƣ ý, ngọc nhƣ ý có thể đáp ứng mọi mong cầu trong tâm chúng sinh. “Nơi tay cầm”: là trong tay cầm viên ngọc nhƣ ý. Quý vị phải tu pháp nơi tay cầm viên ngọc Nhƣ Ý. Câu “đương ư như ý châu thủ” phải có thêm danh từ ‗nhãn‘ phía sau chữ ‗thủ‘, ―đƣơng ƣ nhƣ ý châu thủ nhãn‖ thì mới đúng nghĩa là tu theo pháp châu nhƣ ý 42 tay mắt nhƣ dƣới đây:
Hán văn: Nhược vị chủng chủng bất an, cầu an ẩn giả, đương ư quyên sách thủ.
Nhược vị phúc trung chư bệnh giả đương ư bảo bát thủ.
Nhược vi hàng phục nhất thiết li mị quỷ thần giả, đương ư bả kiếm thủ.
Nhược vị nhất thiết thiên ma thần giả đương ư bạt chiết la thủ.
Nhược vị thôi phục nhất thiết oán địch giả, đương ư kim cương xử thủ.
Nhược vị nhất thiết xứ bố úy bất an giả, đương ư thí vô úy thủ.
Nhược vị nhãn ám vô quang minh giả, đương ư nhật tinh ma ni thủ.
Nhược vị nhiệt độc bệnh cầu thanh lương giả, đương ư nguyệ tinh ma ni thủ.
Nhược vị vinh quan ích chức giả, đương ư bảo cung.
Nhược vị chư thiện bằng hữu tảo tương phùng giả, đương ư bảo tiễn thủ,
Nhược vị thân thượng chủng chủng bệnh giả, đương ư dương chi thủ.
Nhược vị thân thượng ác chướng giả, đương ư bạch phất thủ.
Nhược vị nhất thiết thiện hòa quyến thuộc giả, đương ư bảo bình thủ.
Nhược vị bích trừ nhất thiết hổ lang sài báo chư ác thú giả, đương ư bàng bài thủ.
Nhược vị nhất thiết thời xứ, hảo ly quan nan giả, đương ư phủ thủ.
Nhược vị nam nữ bộc sử giả, đương ư ngọc hoàn thủ.
Nhược vị chủng chủng công đức giả, đương ư bạch liên hoa thủ.
Nhược vị dục đắc vãng sanh thập phương tịnh độ giả, đương ư thanh liên hoa thủ.
Nhược vị đại trí tuệ giả, đưng ư bảo kính thủ.
Nhược vị diện kiến thập phương nhất thiết chư Phật giả, đương ư tử liên hoa thủ.
Nhược vị địa trung phục tạng giả, đương ư bảo khiếp.
Nhược vị tiên đạo giả, đương ư ngũ sắc vân thủ.
Nhược vị sanh phạm thiên giả, đương ư quân trì thủ.
Nhược vị vãng sanh chư thiên cung giả, đương ư hồng liên thủ.
Nhược vị tị trừ tha phương nghịch tặc giả, đương ư bảo kích thủ giả.
Nhược vị triệu hồ nhất thiết chư thiên thiện thần giả, đương ư bảo loa thủ.
Nhược vị sử lịnh nhất thiết quỷ thần giả, đương ư độc lâu trượng giả.
Nhược vị thập phương chư Phật tốc lai thọ thủ giả, đương ư số châu thủ.
Nhược vị thành tựu nhất thiết thượng diệu phạm âm thanh giả, đương ư bảo đạc thủ.
Nhược vị khẩu nghiệp từ biện sảo diệu giả, đương ư bảo ấn thủ.
Nhược vị thiện thần long vương thường lai ủng hộ giả, đương ư câu thi thiết câu thủ.
Nhược vị từ bi phú hộ nhất thiết chúng sanh giả, đương ư tích trượng thủ.
Nhược vị nhất thiết chúng sanh thường tương cúng kính ái niệm giả, đương ư hiệp chưởng thủ.
Nhược vị sanh sanh chi xứ bất ly chư Phật biên giả, đương ư hóa Phật thủ.
Nhược vị sanh sanh xứ xứ thường tại Phật cung điện trung, bất xứ thai tang trung thọ thân giả, đương ư hóa cung điện thủ.
Nhược vị đa văn quảng học giả, đương ư bảo kinh thủ.
Nhược vị tùng kim thân chí Phật thân, bồ đề tâm thường bất thối chuyển giả, đương ư bất thối kim luân thủ.
Nhược vị chư Phật tốc lai ma đảnh thọ ký giả, đương ư đảnh thượng hóa Phật thủ.
Nhược vị quả chư cốc giá giả, đương ư bồ đào thủ.
(Việt dịch:1, Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân, nên cầu nơi tay cầm cành dƣơng liễu. Chân ngôn rằng: Án– tô tất địa, ca rị, phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.
2, Nếu muốn trị các thứ bệnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái bát báu. Chân ngôn rằng: Án–, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựtra, hồng phấn tra.
3, Nếu muốn trị bệnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay cầm châu nhựt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án–, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.
4, Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu nơi tay cầm bạt chiết la Chân ngôn rằng: Án– nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.
5, Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi tay cầm chày kim cang. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt-ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát-ra nễ bát đa dã, tá-phạ hạ.
6, Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay thí vô úy. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt-ra, nẵng dã, hồng phấn tra.
7, Nếu bị các việc khuấy rối, muốn đƣợc an ổn, nên cầu nơi tay cầm dây quyến sách. Chân ngôn rằng: Án — chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
8, Nếu bị bệnh nhiệt độc, muốn đƣợc mát mẻ hết bệnh, nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án — tô tất địa, yết rị, tát-phạ hạ.
9, Nếu muốn đƣợc làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay cầm cung báu. Chân ngôn rằng: Án — a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.
10, Nếu muốn đƣợc mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên báu. Chân ngôn rằng: Án — ca mạ lã, tát-phạ hạ.
11, Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lƣợng, nên cầu nơi tay cầm gƣơm báu. Chân ngôn rằng: Án — đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.
12, Nếu muốn trừ những chƣớng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng. Chân ngôn rằng: Án– bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tátphạ hạ.
13, Nếu muốn tất cả ngƣời trong quyến thuộc đƣợc hòa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình. Chân ngôn rằng: Án — yết lệ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
14, Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài. Chân ngôn rằng: Án — dƣợc các sam nẵng, na dã chiến nại-ra, đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.
15, Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt. Chân ngôn rằng: Án — vị ra dã, vị ra dã, tát phạ hạ.
16, Nếu mu n có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc. Chân ngôn rằng: Án — bát na hàm, vị ra dã, tát-phạ hạ.
17, Nếu muốn đƣợc các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.
18, Nếu muốn đƣợc sanh về 10 phƣơng tịnh độ, nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh. Chân ngôn rằng: Án — chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà hồng phấn tra.
19, Nếu muốn đƣợc trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gƣơng báu. Chân ngôn rằng: Án — vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lã, hồng phấn tra.
20, Nếu muốn đƣợc diện kiến 10 phƣơng tất cả chƣ Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím. Chân ngôn rằng: Án — tát ra, tát ra, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
21, Nếu muốn lấy đƣợc kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm ra hồng.
22, Nếu muốn đƣợc đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa hiện mây ngũ sắc. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, ca rị ra tra hàm tra.
23, Nếu muốn sanh lên cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm bình quân trì. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra thế khê ra, rô tra hàm tra.
24, Nếu muốn đƣợc sanh lên các cung trời, nên cầu nơi tay cầm hoa sen hồng. Chân ngôn rằng: Án — thƣơng yết lệ, tát phạ hạ.
25, Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phƣơng khác đến, nên cầu nơi tay cầm cây bảo kích. Chân ngôn rằng: Án — thảm muội dã, chỉ nãnh hạ rị, hồng phấn tra.
26, Nếu muốn triệu tất cả chƣ thiên thiện thần, nên cầm nơi tay ống loa báu. Chân ngôn rằng: Án — thƣơng yết lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát phạ hạ.
27, Nếu mu n sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi tay cầm cây gậy đầu lâu. Chân ngôn rằng: Án — độ nẵng, phạ nhựt ra.
28, Nếu muốn 10 phƣơng chƣ Phật sớm đến đƣa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ — ra đá nẵng, đát ra dạ dã, Án — a na bà đế vĩ nhã duệ. Tất địa tất đà lật đế, tát phạ hạ.
29, Nếu muốn có đƣợc tất cả phạm âm thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án — a mật lật đảm, nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát phạ hạ.
30, Nếu muốn đƣợc miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi tay cầm chiếc ấn báu. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát phạ hạ.
31, Nếu muốn đƣợc thiên thần, long vƣơng thƣờng đến ủng hộ, nên cầu nơi tay cầm cu thi thiết câu. Chân ngôn rằng: Án – a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa duệ, nẵng mồ tát phạ hạ.
32, Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh đƣợc nhở sự che chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trƣợng. Chân ngôn rằng: Án — na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.
33, Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thƣờng cung kính yêu mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chƣởng. Chân ngôn rằng: Án – bát nạp mạng, nhá lăng hất rị. (Theo trong Tạng bản, lại có chân ngôn: Án — vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng phấn tra).
34, Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thƣờng ở bên Phật, nên cầu nơi tay hiện hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án — chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.
35, Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thƣờng ở trong cung điện Phật, không thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện. Chân ngôn rằng: Án — vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
36, Nếu muốn đƣợc học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi tay cầm quyển kinh báu. Chân ngôn rằng: Án — a hạ ra, tát ra phạ ni, nễ dã đà ra, b nễ đế, tát phạ hạ.
37, Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm bồ đề thƣờng không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối kim luân. Chân ngôn rằng: Án — thiết na di tả, tát phạ hạ.
38, Nếu muốn 10 phƣơng chƣ Phật mau đến xoa đầu thọ ký, nên cầu nơi tay đảnh thƣợng hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt rị ni, phạ nhựt lãm nghệ tát phạ hạ.
39, Nếu muốn có đƣợc cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ đào. Chân ngôn rằng: Án — A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát phạ hạ.
40, Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát đƣợc no đủ mát mẻ, nên cầu nơi tay hóa nƣớc cam lộ. Chân ngôn rằng: Án — tố rô tố rô bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố rô dã, tát phạ hạ.
41, Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên, nên cầu nơi tay tổng nhiếp thiên thủ. Chân ngôn rằng: Đát nễ dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tra ô hạ di dã, sá phạ ha.)
(Phần Việt dịch này có thêm chân ngôn và 2 thủ nhãn cuối là do được tham khảo kinh văn Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni ở Việt Nam do Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch) Lược giảng:
Trên đây là Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, phía sau sẽ có ảnh. Phần này tôi sẽ giảng giải sau bởi vì bây giờ tôi đang giảng giải Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, sau này có nhân duyên tôi sẽ giảng Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn sau.
Hán văn: Nhƣ thị khả cầu chi pháp, hữu kỳ thiên điều, kim thọ lƣợc thuyết thiếu nhĩ.
(Việt dịch: Này A Nan! Những pháp đáng mong cầu như thế, có tới hàng ngàn pháp. Nay ta chỉ nói lược qua thôi.) Lược giảng:
Trong chú Đại Bi có Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, có ngƣời
hỏi tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt? Quán Thế Âm Bồ tát có đại oai đức và thần thông, Ngài tu nghìn tay nghìn mắt, tất cả đều xuất phát từ việc thực hành tâm đại bi. Pháp Đại Bi có tứ thập nhị thủ nhãn, thực hành tứ thập nhị thủ nhãn này, nếu ngƣời ấy thành tựu, tƣơng lai ngƣời ấy sẽ có nghìn tay nghìn mắt. Nghìn tay dùng để cứu độ chúng sinh, nghìn mắt dùng để theo dõi chúng sinh, xem chúng sinh có khổ nạn gì thì dùng nghìn tay để cứu độ.
Quán Thế Âm Bồ tát tu Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này thì đắc đƣợc nghìn tay nghìn mắt, mỗi ngƣời chúng ta dù quý vị là ai nếu tu Pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn và pháp Chú Đại Bi thì cũng có nghìn mắt, nghìn tay. Không phải chỉ có Quán Thế Âm Bồ là ngƣời duy nhất có thể có nghìn tay và nghìn mắt, mà tất cả chúng ta đều có thể có đƣợc. “Những pháp đáng mong cầu như thế, có tới hàng ngàn pháp”: Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn đã nói ở trên, đây là Pháp hi hữu đáng tìm cầu, pháp này cầu là sẽ đắc. Pháp mà thủ nhãn nêu tƣờng tận ra có lên đến hàng nghìn, đại biểu cho nghìn tay, nghìn mắt. “Nay ta chỉ nói lược qua thôi”: Nhƣng nay chỉ nói sơ lƣợc thôi.
Hán văn: Nhật quang bồ tát vi thọ trì đại bi đà la ni giả thuyết đại thần chú nhi ủng hộ chi. Nam mô bột đà cù na mê, nam mô đạt ma mạc ha đê, nam mô tăng già đa dạ nê, để lỵ bộ tất tát đốt diêm nạp ma.
(Việt dịch: Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà la ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: Nam mô bột đà cù na mê. Nam mô đạt ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê, đế lỵ bộ tất đát đốt diêm nạp ma.) Lược giảng:
“Nhật Quang Bồ tát”: hầu hết mọi ngƣời đều nghĩ rằng
Bồ tát Nhật Quang là mặt trời, nhƣng không phải vậy. Đây là một vị Bồ tát tên là Nhật Quang. Chúng ta, những ngƣời không hiểu đạo Phật, thƣờng cho rằng Nhật Quang Bồ Tát là mặt trời, Nguyệt Quang Bồ Tát là mặt trăng, điều đó không chính xác. Tên của hai ngài xuất phát từ sự tu hành hạnh nguyện trải qua nhiều đời nhiều kiếp mới có tên là nhƣ vậy. “Vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà la ni”: Bồ tát Nhật Quang vì để giúp đỡ và ửng hộ những ngƣời trì tụng ―Chú Đại Bi‖ mà diễn nói Thần Chú. Niệm chú này sẽ đƣợc hết thảy hộ pháp gia hộ, chú này còn gọi là chú ủng hộ Đại bi chú. Tên của chú này là Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni: Nam mô bột đà cù na mê, nam mô đạt ma mạc ha đê, nam mô tăng già đa dạ nê, để lỵ bộ tất tát đốt diêm nạp ma. Đây là tên tất cả những vị hộ pháp đều đến ủng hộ ngƣời trì chú.
Hán văn: Tụng thử chú diệt nhất thiết tội, diệt năng tị ma, cập trừ thiên tai, nhƣợc tụng nhất biến, lễ Phật nhất bái, nhƣ thị nhật biệt tâm thời, tụng chú lễ Phật, vị lai chi thế, sở thọ thân xứ, đƣơng đắc nhất nhất tƣớng mạo đoan chánh, khả hỉ quả báo.
(Việt dịch: Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.) Lược giảng:
“Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai”: quý vị niệm thần chú Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni có thể tiêu trừ tất cả tội chƣớng, cũng khiến trừ tà ma, và thiên tai. Những gì là thiên tai? Đó là gió lớn, mƣa to, bão, hay động đất, đây đều là thiên tai. “Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế”: nếu có ngƣời một ngày ba thời, sáng trƣa và chiều niệm chú này một biến, lễ Phật một lạy, công phu nhƣ thế. “Trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng”: niệm chú và lạy Phật, đời vị lai sanh ở chỗ nào, quý vị đều đƣợc tƣớng mạo đoan chánh, xinh đẹp và ai thấy tƣớng mạo của bạn đều sanh tâm hoan hỉ, chính quý vị cũng hoan hỉ.
Hán văn: Nguyệt Quang Bồ Tát, diệc phục vị chƣ hành nhân, thuyết đà la ni chú nhi ủng hộ chi. ―Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha‖
(Việt dịch: Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhân mà nói Đà la ni để ủng hộ rằng: Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha.) Lược giảng:
“Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhân mà nói Đà la ni để ủng hộ rằng”: Bồ tát Nguyệt Quang cũng tuyên thuyết thần chú để ủng hộ ngƣời niệm, trì tụng chú Đại Bi. Thần chú ấy là “Nguyệt Quang Bồ tát Đà La Ni”: ―Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha‖. Quý vị những ai trì tụng chú Đại Bi thì nên tụng thêm hai thần chú Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni và Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni thì công đức vô lƣợng vô biên không thể nghĩ bàn.
Hán văn: Tụng thử chú ngũ biến, thủ ngũ sắc tuyền tố chú sách, thống xứ hệ. Thử chú nãi thị quá khứ tứ thập hằng hà sa chƣ Phật sở thuyết, ngã kim diệc thuyết, vi chƣ hành nhân tác ủng hộ cố, trừ nhất thiết chƣớng nạn cố. Trừ nhất thiết ác bệnh thống cố, thành tựu nhất chƣ thiện pháp cố, viễn ly nhất thiết chƣ bố úy cố.
(Việt dịch: Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc vào chỗ đau, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhân mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác, thành tựu thiện pháp, xa lìa tất cả sự sợ hãi.) Lược giảng:
“Tụng chú này 5 biến”: tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni năm biến, “rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào”: quý vị lấy 5 sợi dây có 5 màu (Xanh dương, đỏ, vàng, trằng và đen) bện thành 1 sợi dây ngũ sắc sau đó tụng vào đó 5 biến chú Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni rồi “buộc vào chỗ đau”: thì quý vị bị đau ở chỗ nào thì buộc vào ở đó. “Chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra”: thần chú Nguyệt Quang Bồ tát Đà La Ni này đã đƣợc các Đức Phật đời quá khứ nhiều nhƣ số cát trong 40 con sông Hằng tuyên thuyết. “Nay tôi cũng nói để vì các hành nhân mà làm duyên ủng hộ”: bây giờ, trong Pháp hội nói kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni ngài Nguyệt Quang Bồ tát cũng thuyết thần chú này để hộ trì ngƣời trì chú Đại Bi. “Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác, thành tựu thiện pháp, xa lìa tất cả sự sợ hãi”: thần chú cũng công năng tiêu trừ tất cả những chƣớng nạn, diệt hết các bệnh tật khổ đau. Quý vị tu các thiện pháp gì thì thần chú sẽ giúp quý vị thành tựu đƣợc thiện pháp và xa rời tất cả các sợ hãi. Thần chú này cũng có năng lực không thể nghĩ bàn.
Hán văn: Phật cáo A nan, nhữ đƣơng thâm tâm thanh tịnh, thọ trì thử đà la ni, quảng tuyên lƣu bố ƣ Diêm Phù Đề, mạc lịnh đoạn tuyệt, thử đà la ni, năng đại lợi ích tam giới chúng sanh, nhất thiết hoạn khổ oanh thân giả, dĩ thử đà la ni trị chi, vô hữu bất sai giả, thử đại thần chú, chú càn khô thọ, thƣợng đắc sanh chi kha hoa quả, hà huống hữu tình hữu thức chúng sanh, thân hữu bệnh hoạn, trị chi bất sai giả, tất vô thị xứ.
(Việt dịch: Đức Phật bảo ngài A Nan: Ông nên dùng tâm tin sâu, tâm thanh tịnh mà thọ trì môn Đại Bi tâm Đà la ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà la ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà la ni này mà trị thì không bệnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bệnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.) Lược giảng:
“Đức Phật bảo ngài A Nan”: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi đã nói những lời trƣớc, liền bảo ngài A nan: “Ông nên dùng tâm tin sâu, tâm thanh tịnh”: ‗tin sâu‘ là tâm không hời hợt, không buông lung, qua loa, cẩu thả. Quý vị nên đặc biệt chú ý để tâm thanh tịnh. ‗Tâm thanh tịnh‘: chính là không vọng tƣởng, không cho tâm tán loạn, “mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà la ni này”: nếu quý vị tụng thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, quý vị phải nhất tâm, không hƣớng ngoại phan duyên, không vọng tƣởng, rồi mới trì tụng thần chú.
“Và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề”: Đức Phật phó thác cho ngài A Nan cần phải phổ biến, tuyên truyền công năng thần chú Đại Bi trên khắp cõi Diêm Phù Đề, hãy giới thiệu cho tất cả chúng sinh lợi ích của thần chú Đại Bi, “chớ cho đoạn tuyệt”: ông hãy nhớ, nhớ cho cẩn thận! Chớ để Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi dứt mất, không có ngƣời biết đến. Quý vị thấy Đức Phật phó thác cho ngài A Nan phải ghi nhớ lƣu bố kinh này và thần chú Đại Bi trên khắp cõi Nam Diêm Phù để lợi ích cho chúng sinh, vì vậy quý vị là những ngƣời Phật tử, những ngƣời trì tụng thần chú Đại Bi cũng nên rộng dùng nhiều phƣơng tiện mà lƣu hành, phổ biến Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, chú Đại Bi và bản giảng giải này để cho nhiều ngƣời đều đƣợc biết đến, đều đƣợc lợi ích, chớ để dùng riêng cho mình, chớ để cho đoạn tuyệt.
“Đà la ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi”: thần chú tổng trì này có năng lực làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong cả tam giới, không chỉ lợi ích chúng sanh ở cõi dục giới, mà chúng sanh ở cõi sắc giới cũng đƣợc lợi ích, rồi chúng sanh ở cõi vô sắc giới cũng đều đƣợc lợi ích. “Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân”: tất cả các bệnh tật, các đau đớn hành hạ quý vị; hoặc gặp những bệnh hiểm nghèo, hoặc bênh nan y, hoặc những bệnh vô phƣơng cứu chữa, “nếu dùng Đà la ni này mà trị thì không bệnh nào chẳng lành”: nếu dùng chú Đại Bi để chữa thì bất luận là bệnh gì đều tiêu trừ, chú Đại Bi có thể chữa đƣợc 84.000 loại bệnh trên thế gian này.
“Dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái”: thần chú Đại Bi này, nếu cây đã chết khô, nếu bạn niệm chú Đại Bi cho nó thì cây khô liền có thể sống lại và ra hoa kết quả, “huống chi là chúng sanh có tình thức”: huống gì con ngƣời là chúng sanh có tình cảm và trí thức. “Nếu thân bị đại bệnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có”: nếu thân quý vị mà có bệnh gì, nếu trì chú Đại Bi để chữa trị mà không lành thì nhất định không có điều đó.
Tụng ―Chú Đại Bi‖ sẽ đắc đƣợc cảm ứng, loại cảm ứng này không thể nghĩ bàn, nhƣng quý vị phải thành tâm, không chút nghi ngờ, nếu quý vị nghi ngờ, sẽ không có sự cảm ứng. Nếu quý vị thực hành và trì tụng chú ―Chú Đại Bi‖ một cách toàn tâm toàn ý, không vọng tƣởng, quý vị nhất định sẽ đƣợc sự cảm ứng không thể nghĩ bàn này. Hiện nay trong Phật giáo, rất ít ngƣời biết đến công năng của chú Đại Bi, đặc biệt là không biết đến Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni và Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni huống gì là trì tụng. Vẫn còn Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, vào thời kỳ mạt pháp này, chắc hẳn trong Phật giáo không còn ai có thể tu tập loại Pháp này và hiểu đƣợc loại Pháp này.
Bây giờ tại Phật Giáo Giảng Đƣờng này giảng Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này, cùng với Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, hy vọng pháp môn này sẽ đƣợc chấn hƣng trở lại, để ngƣời đời sau hiểu rõ pháp môn này, ngõ hầu trong tƣơng lai có thể đƣợc nhiều ngƣời hiểu đƣợc và tu tập. Nếu hiểu và thực hành pháp này thì sự đắc đạo ở ngay trƣớc mắt, ngƣời đắc ngũ nhãn lục thông ngày càng nhiều. Nhƣng thời mạt pháp này căn tánh chúng sanh ngu độn bị cám dỗ bởi dục bên ngoài nên đã mê muội còn muội mê hơn, nếu nhƣ gặp chánh pháp cũng không nhận ra. Còn quý vị gặp đƣợc chánh pháp, tu theo chánh pháp của pháp tu này, đắc đƣợc ngũ nhãn, lục thông, đó là một điều hy hữu, đó là một điều khó làm đƣợc mà quý vị đã làm đƣợc trong thời mạt pháp này.
Khi chúng ta thực hành pháp này, dù trải qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu công việc bộn bề, nhƣng không nên bỏ tụng Chú Đại Bi, trì chú Lăng Nghiêm, trì tụng Nhật Quang Bồ tát Đà la ni, Nguyệt Quang Bồ tát Đà la ni, và pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này. Bởi vì, làm việc gì đều phải qua quá trình rèn luyện công phu mới thành tựu, cũng giống nhƣ ngƣời viết văn, lúc ban đầu viết không thể hay và nổi tiếng thành nhà văn mà là sự tôi luyện ngày này qua tháng nọ mới thành một nhà văn thực thụ. Sự tu tập cũng giống nhƣ vậy, không thể một sớm một chiều mà thành tựu, mà là quá trình công phu dài đăng đẳng mới thành công.
Thời đại mạt pháp này mà chúng ta đƣợc ngồi ở giảng đƣờng nghe pháp, lại còn chiêm nghiệm giáo lý là điều bất khả tƣ nghì rồi. Bởi vì, quý vị đều có trồng căn lành từ những kiếp trƣớc, nếu không có thiện căn thì bây giờ đến cả tên chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm, chú Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni và Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn còn không đƣợc nghe thấy, thậm chí đến ngay cả những tu sĩ mà không tu hành đàng hoàng cũng không thể gặp đƣợc. Vậy nên bây giờ quý vị đã có cơ hôi gặp đƣợc rồi thì nên trân quý, dụng công chớ lƣời biếng thì quý vị sẽ đƣợc thành tựu pháp trong tƣơng lai.
Hán văn: Thiện nam tử, thử đà la ni oai thần chi lực, bất khả tƣ nghì, bất khả tƣ nghì, thán mạc năng tận. Nhƣợc bất quá khứ cửu viễn dĩ lai, quảng chủng thiện că, nãi chí danh tự bất khả đắc văn, hà huống đắc kiến, nhữ đẳng đại chúng, thiên nhân long thần, văn ngã tán thán, giai ƣng tùy hỉ.
(Việt dịch: Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà la ni này không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ.) Lược giảng:
“Này thiện nam tử”: Thiện nam tử là cách xƣng hô của Đức Phật dành cho chúng đệ tử ở trong hội. Thiện nam tử có thể là Bồ tát, là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ƣu bà tắc, Ƣu bà di hay tất cả những ngƣời có mặt trong hội. “Đại Bi tâm đà la ni này”: thần chú Đại Bi đà la ni này là chú ‗tổng trì‘; tổng nhất thiết pháp, trì vô lƣợng nghĩa. “Sức oai thần”: oai thần là oai lực đáng sợ, ngƣời hay quỷ thần đều khiếp sợ trƣớc năng lực phi thƣờng này, quy kính oai lực của chú này, “không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn”: loại năng lực này quý vị không thể dùng tâm để suy lƣờng, cũng không thể dùng ngôn ngữ bàn luận, so sánh đƣợc. Hai câu không thể thể nghĩ bàn này là để nhấn mạnh, bày tỏ sự cảm thán, quá vi diệu. “Khen ngợi không bao giờ hết được”: ‗Thán‘ là tán thán, khen ngợi, cho dù tán thán, khen ngợi thần lực đà la ni này, nói không bao giờ hết.
“Nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay”: giả sử không phải quý vị hay những ngƣời khác từ vô lƣợng kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay, “đã gieo nhiều căn lành”: đã rộng trồng nhiều cội phƣớc lành, “thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe”: thì ngày đến cái tên chú Đại Bi Tâm Đà La Ni còn không nghe thấy đƣợc. Tại sao bây giờ quý vị lại nghe thấy đƣợc tên của chú này, bởi vì quý vị có căn lành nên bây giờ mới có thể nghe đƣợc tên của chú Đại Bi. Quý vị thử nghĩ xem trên thế gian này có bao nhiêu ngƣời, thì có khoảng bao nhiều ngƣời đƣợc nghe đến tên thần chú Đại Bi và trong số những ngƣời đã đƣợc nghe đến tên thần chú Đại Bi thì có bao nhiêu ngƣời tu pháp môn chú Đại Bi. Từ đó có thể thấy ‗Chú Đại Bi‘ này hiếm có đến mức đến cái tên cũng còn không thể nghe thấy đƣợc, ―huống chi là được thấy”: đến cái tên của chú Chú Đại Bi còn chƣa nghe qua thì nói gì đến đọc tụng hay nghe đến thần chú Nhật Quang, Nguyệt Quang, và tứ thập nhị thủ nhãn bất khả tƣ nghì. Nếu trong quá khứ không rộng trồng nhiều căn lành thì không thể trì tụng đƣợc chú Đại Bi, cũng không thể trì tụng đƣợc thần chú Nhật Quang Bồ tát hay chú Nguyệt Quang Bồ tát. Giả nhƣ căn lành của quý vị chƣa đƣợc thật sự sâu dày và đủ chín muồi thì quý vị chỉ có thể gặp đƣợc Đại bi chú và trì tụng thần chú Đại bi thôi, mà không gặp đƣợc Nhật Quang và Nguyệt Quang Đà la ni thần chú mà tụng trì kèm theo chú Đại Bi đâu.
Tôi biết đƣợc trong Phật giáo, đại đa số mọi ngƣời đều biết đến chú Đại Bi nhƣng chú Nhật Quang Bồ tát Đà La Ni, và Nguyệt Quang Bồ tát Đà La Ni thì ít đƣợc nghe qua. Cho dù quý vị có thể niệm Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni và Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, thì Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này cũng không biết sử dụng. Bây giờ, chúng ta có thể hiểu đƣợc Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, lại gặp đƣợc chú Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát thì đúng là đã phải trồng vô lƣợng căn lành trong vô lƣợng kiếp, mới có thể hiểu đƣợc pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này.
“Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ”: tất cả đại chúng trời, ngƣời, rồng, tất cả các vị thần,… khi nghe đƣợc đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi chú Đại Bi cũng nên vui mừng, ca ngợi. Cùng nhau vui mừng vì gặp đƣợc pháp hi hữu hiếm có này và phải cùng nhau tu tập.
Hán văn: Nhƣợc hữu báng thử chú giả, tức vi báng bỉ cửu thập cửu ức hằng hà sa chƣ Phật. Nhƣợc ƣ thử Đà La Ni sanh nghi bất tín giả, đƣơng tri kỳ nhân vĩnh thất đại lợi, bách thiên vạn kiếp, thƣờng luân ác thú, vô hữu xuất kỳ, thƣờng bất kiến Phật, bất văn Pháp, bất đỗ tăng.
(Việt dịch: Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với Đà la ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ ác đạo không biết bao giờ mới được ra khỏi, thường không thấy Phật, không được nghe Pháp, không gặp tăng.) Lược giảng:
“Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này”: giả sử có ngƣời phỉ báng chú Đại bi, nói đây là mê tín, chú này không phải do Đức Phật thuyết, chú này do ngƣời Trung Quốc nghĩ ra, hoặc đại loại nhƣ thế,…, “tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật”: tức là ngƣời đó đang hủy báng số đức Phật quá khứ bằng số cát trong 99 con sông Hằng đã tuyên thuyết thần chú này. “Nếu người nào đối với Đà la ni này sanh nghi không tin”: nếu ngƣời nào nơi chú Đại Bi này mà khởi ra tâm nghi ngờ hoặc không tin, “nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn”: những ngƣời đối với chú mà có lòng nghi ngờ thì quý vị nên biết những ngƣời đó vĩnh viễn bị mất đi lợi ích to lớn mà họ đáng đƣợc thọ nhận, lợi ích to lớn là gì? Nếu gặp đƣợc ―Chú Đại Bi‖ mà tu hành, thì có thể thoát khỏi sinh tử, thành Phật, chứng đƣợc địa vị bất thối chuyển. Nếu không tin pháp môn này, thì tự làm mất hạt giống đại bi, chìm đắm trong dòng sinh tử, vĩnh viễn mất đi lợi ích lớn.
“Trăm ngàn muôn kiếp”: tức là có thể là một trăm kiếp, một ngàn kiếp, thậm chí là vạn kiếp, “thường chìm trong tam đồ ác đạo”: thƣờng luân hồi trong cõi ác. Cõi ác là ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, cộng với A tu la thì là bốn cõi ác. “Không biết bao giờ mới được ra khỏi”: sẽ không bao giờ ra khỏi, sẽ không bao giờ ra khỏi địa ngục, ác quỷ, súc sanh và các cõi ác giới của A tu la. “Thường không thấy Phật”: hạng ngƣời này đời đời kiếp kiếp không thấy Phật, chẳng những không thấy Phật mà lại “không được nghe Pháp”: cũng không đƣợc nghe kinh, pháp. Bây giờ, quý vị có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên chúng ta đƣợc nghe giảng kinh trên đất nƣớc Mỹ. Bây giờ quý vị có thể nghe kinh hàng ngày, đó là một việc hy hữu, đừng cho rằng nghe kinh chỉ dành cho ông già, bà lão thôi, “không gặp tăng”: cũng không đƣợc gặp các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Trƣớc đây trên đất Mỹ cũng không có Tam Bảo, không có đạo Phật nên cũng là không đƣợc thấy Phật, không đƣợc nghe pháp và không đƣợc gặp tăng. Nhƣng nay không những thấy Phật, mà còn đƣợc nghe Pháp, thấy Tăng. Sắp tới đây, thêm năm vị tăng ni chính thức sẽ xuất gia tại Hoa Kỳ, quý vị nói, đây thực sự là sự chín muồi căn lành của ngƣời Hoa Kỳ! Căn lành đã chín muồi nên Tam Bảo xuất hiện.
Hán văn: Nhất thiết chúng hội bồ tát ma ha tát, kim cang mật tích, phạm thích tứ vƣơng, thiên long quỷ thần, văn Phật Nhƣ Lai tán thán thử Đà La Ni, giai tất hoan hỉ, phụng giáo tu hành.
(Việt dịch: Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn Đà la ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành) Lược giảng:
“Khi ấy, tất cả chúng hội”: Khi ấy tất cả đại chúng trong hội “Bồ Tát Ma ha tát”: các vị Bồ tát và Đại Bồ tát, “Kim Cang mật tích”: Hộ pháp kim cang, Bồ tát Kim Cang Tạng, “Phạm vương”: Đại Phạm Thiên Vƣơng, “Đế Thích”: vua cõi trời Đao Lợi Thích Đề Hoàn Nhân, cũng chính là Nhân Đà La; “tứ đại thiên vương”: tức là bốn vị Thiên vƣơng của cõi trời Tứ Thiên vƣơng, và tất cả “trời, rồng, quỷ thần”, “nghe đức Như Lai khen ngợi môn Đà la ni này xong”: nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán Đại Bi Tâm Đà La Ni Chƣơng Cú thần diệu này “thảy đều vui mừng”: đều hoan hỉ vui mừng, “y lời dạy mà tu hành”: thực hành theo ―Chú Đại Bi‖, tứ thập nhị thủ nhãn, Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, và Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet
✍️ Mục lục: Kinh Đại Bi 👉 Xem tiếp