Sách Tâm LinhNewsSlide

Nhìn thấu Thuyết Tiến Hóa

✍️ Mục lục: Nhìn thấu Thuyết Tiến Hóa 

Chương 2: Phá vỡ tư duy sai lầm kinh điển về giả thuyết tiến hóa

Hóa thạch ẩn trong đá tuy không mở miệng nhưng lại biết kể chuyện, chúng đã kể lại những câu chuyện gì từ niên đại xa xưa?

Bạn biết điều gì khiến Darwin rùng mình mỗi khi nghĩ về nó không? Bạn có biết tại sao cổ của hươu cao cổ lại dài như vậy? Có thật là để ăn lá cây mọc trên cao không?

Amidan, tuyến tùng và tuyến ức ở người trưởng thành dường như teo lại, nhưng chúng có thực sự là bị thoái hóa? Bạn có biết điều gì sẽ xảy ra khi bạn phẫu thuật cắt bỏ chúng không?

Vào năm 2011, tạp chí “Science” của Mỹ đã công bố một nghiên cứu thú vị, nếu nhốt một con chuột vào lồng sắt rồi đặt món Chocolate yêu thích của chúng vào một chiếc lồng khác, bạn có đoán được một con chuột hoạt động tự do bên ngoài chiếc lồng sẽ làm gì không?

Bạn có biết trò lừa bịp lớn nhất trong giới khoa học trong lịch sử Anh quốc là gì không? Cái gọi là “vượn người tiên tổ,” cuối cùng đã được xác nhận là loài nào?

Giả thuyết tiến hóa không chỉ tồn tại những sai lầm logic cơ bản, mà cả những dữ liệu thực nghiệm và sự thật khoa học ban đầu dùng để chứng minh giả thuyết tiến hóa cũng đều thất bại, làm lung lay nền tảng của nó từ căn bản.

Thật không may, dưới ảnh hưởng bởi giả thuyết tiến hóa của Darwin, mọi người dần quen với việc không suy nghĩ thêm, lầm tưởng giả thuyết là chân lý, tưởng rằng các giống loài sinh vật trên Trái Đất đều dần dần tiến hóa từ cùng một tổ tiên trong một thời gian dài đằng đẵng; trải qua “chọn lọc tự nhiên” và “cạnh tranh sinh tồn,” các loài ưu thế được lưu lại và hình thành nên nhiều loài sinh vật trên thế giới ngày nay. Giả thuyết tiến hóa đã ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học của nhân loại trong hơn một trăm năm nay.

“Giả thuyết tiến hóa” là một loại ảo tưởng đơn giản và tuyến tính về nguồn gốc của sinh mệnh. Tuy nhiên, ảo tưởng dù sao cũng không thể thay thế sự thật, vậy quan điểm chính xác về sinh mệnh là gì? Từ chương thứ hai, chúng tôi sẽ từng bước phân tích sâu thêm.

Tại sao giả thuyết tiến hóa có rất nhiều lỗ hổng, nhưng nó đã thống trị cộng đồng khoa học trong hơn một trăm năm? Câu hỏi kích thích tư duy này, trong các chương tiếp theo của loạt bài viết “Nhìn thấu thuyết tiến hóa,” chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận với các bạn và từng bước tiết lộ sự thật bên trong.

1. Không phải “tiến hóa từ từ” mà là “đột ngột bùng nổ”

1.1 Sự vắng mặt của các loài trung gian – một lỗ hổng mà Darwin công nhận

Thuyết tiến hóa cho rằng, giữa các loài khác nhau có một mối quan hệ họ hàng, một sinh vật có thể nhảy từ loài này sang loài khác. Nếu giả thuyết tiến hóa là đúng thì toàn bộ thế giới sinh vật đều là một loại sinh vật bậc thấp tiến hóa đến một loại sinh vật bậc cao khác, và phải trải qua vô số thế hệ loài trung gian với những khác biệt rất nhỏ.

Nếu giả thiết này là đúng thì ít nhất chúng ta sẽ rút ra được hai kết luận sau:

Thứ nhất, chúng ta hãy phóng to tầm mắt đến toàn bộ không gian trên Trái Đất ngày nay để quan sát, bởi vì môi trường sống của mọi sinh vật trên Trái Đất đang không ngừng thay đổi, bao gồm biến đổi khí hậu, carbon dioxide gia tăng, ô nhiễm môi trường v.v. những sinh vật này cũng sẽ tiếp tục không ngừng “tiến hóa” thành loài có thể “thích ứng với môi trường.”

Hơn nữa, trên thế giới có rất nhiều sinh vật sống trong đủ loại môi trường sinh thái khác nhau, cho nên chắc chắn sẽ tồn tại một mắt xích trung gian trong quá trình biến đổi các loài.

Tuy nhiên, thực tế là tất cả các sinh vật sống trên Trái Đất đều thuộc về loài của riêng chúng, từ các loài động vật và thực vật khác nhau cho đến loài người cao cấp nhất, tất cả các loài sinh vật đều có loài riêng, trước nay chưa có khoa học gia nào nói rằng đã sản sinh ra một loài trung gian.

Thực tế là hiện nay trên Trái Đất không tồn tại loài trung gian. Trong cuốn “Nguồn gốc các loài,” Chương 6 – “Khó khăn của lý thuyết,” Darwin đã liệt kê bốn khó khăn và ý kiến phản đối, trong đó “loài trung gian” được xếp ở vị trí đầu tiên. “Tính độc đáo của mỗi loại sinh mệnh cụ thể và việc chúng không có vô số giai đoạn chuyển tiếp trộn lẫn vào nhau, là một khó khăn rất rõ ràng… Đây có lẽ là ý kiến phản đối rõ ràng và nghiêm trọng nhất đối với lý thuyết của tôi.” [75]

Thứ hai, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử của Trái Đất và đưa tọa độ thời gian trở về những niên đại xa xưa.

Trên Trái Đất có vô số sinh vật, sau khi chúng tử vong, di thể hoặc vết tích của chúng đều bị bùn cát vùi lấp. Sau đó, trải qua thời gian lâu dài, vật chất hữu cơ bị phân hủy, các phần cứng như vỏ, xương, cành, lá v.v. đều bị hóa thành đá, nhưng hình dạng, cấu trúc và một số kết cấu bên trong của chúng vẫn được lưu lại. Tương tự như vậy, các vết tích do sinh vật để lại cũng có thể được lưu lại.

Những vết tích hoặc di thể sinh vật hóa đá này được gọi là hóa thạch. Thông qua hóa thạch, chúng ta có thể thấy hình dạng của động vật và thực vật thời cổ đại, từ đó suy ra điều kiện và môi trường sống của chúng, cũng có thể suy ra niên đại hình thành và những thay đổi của địa tầng nơi chôn vùi hóa thạch, v.v.

Nếu sinh vật trên Trái Đất đều là tiến hóa dần dần từ các sinh vật cổ đại, thì những nhà Cổ sinh vật học chuyên nghiên cứu về hóa thạch hẳn là có thể tìm thấy hóa thạch chứng minh rằng một loài “tiến hóa” thành loài khác.

Ví dụ, nếu loài A thực sự có thể dần dần tiến hóa thành loài B, thì có thể tìm thấy một “hình thái biến hóa dần dần chuyển tiếp” giữa hai loài. Hóa thạch có đặc điểm của cả A và B này được gọi là “mắt xích trung gian.”

Do đó, Darwin đã viết trong cuốn “Nguồn gốc các loài” rằng: “Số lượng các mắt xích trung gian và chuyển tiếp, giữa tất cả các loài đang sống và đã tuyệt chủng, hẳn là lớn không thể tưởng tượng nổi. Nhưng chắc chắn rằng, nếu thuyết này [về sự tiến hóa] là đúng, thì chúng đã tồn tại trên Trái Đất.” [76] (The number of intermediate and transitional links, between all living and extinct species, must have been inconceivably great. But assuredly, if this theory [of evolution] be true, such have lived upon the earth.)

Darwin muốn nói rằng nếu các sinh vật thực sự tiến hóa dần dần từng bước từ động vật không xương sống thành động vật có xương sống, từ cá thành động vật lưỡng cư, bò sát rồi đến chim và động vật có vú, vậy thì các hóa thạch sinh vật thuộc loại trung gian hẳn là phải có mặt ở khắp mọi nơi trên Trái Đất.

Nhưng cho đến nay, mặc dù các nhà khảo cổ học đã rất nỗ lực để tìm kiếm những loại sinh vật trung gian này, nhưng vẫn chưa phát hiện hóa thạch nào như vậy. Hồ sơ hóa thạch có thể nói là đã làm Darwin thất vọng.

Nếu là hóa thạch thì sẽ không có trầm tích chọn lọc. Vậy tại sao lại chỉ thiếu hóa thạch của các loại sinh vật trung gian này? Một lời giải thích có lẽ hợp lý hơn, đó là những loại sinh vật trung gian này chưa bao giờ xuất hiện.

Sau này, trong cuốn “Nguồn gốc các loài” Darwin đã thừa nhận rằng: “Tính khác biệt của các dạng sống cụ thể, và việc chúng không được trộn lẫn với nhau bằng vô số mắt xích chuyển tiếp, là một khó khăn rất rõ ràng… Tại sao mọi thành hệ địa chất và mọi địa tầng lại không chứa đầy các mắt xích trung gian? Địa chất học chắc chắn sẽ không tiết lộ bất kỳ chuỗi hữu cơ nào của sự tiến hóa tinh vi và dần dần như vậy; và đây có lẽ là sự phản đối rõ ràng và nghiêm trọng nhất đối với lý thuyết của tôi.” (The distinctiveness of specific forms, and their not being blended together by innumerable transitional links, is a very obvious difficulty…… Why then is not every geological formation and every stratum full of such intermediate links? Geology assuredly does not reveal any such finely-graduated organic chain; and this, perhaps, is the most obvious and serious objection to my theory.) [77]

1.2 Hóa thạch không thể chứng minh cho thuyết tiến hóa

Thiếu các loại hóa thạch trung gian là khó khăn lớn nhất trong việc chứng minh giả thuyết tiến hóa, đó là vết thương trí mạng đối với giả thuyết tiến hóa.

Vào thời điểm đó, Darwin đã đổ lỗi cho sự không đầy đủ của hồ sơ hóa thạch. Sau hơn 100 năm nỗ lực, các khoa học gia đã phát hiện rất nhiều địa tầng được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh, họ cũng đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về các hóa thạch được bảo tồn trong đó, nhưng vẫn không thể tìm được các loại hóa thạch trung gian.

Sau khi đánh giá các hóa thạch, ông Stephen Jay Gould, Giáo sư Cổ sinh vật học tại Đại học Harvard ở Hoa Kỳ đã kết luận rằng: “Nói tóm lại, nếu tiến hóa có nghĩa là sự thay đổi dần dần của một loại sinh vật thành một loại sinh vật khác, thì đặc điểm nổi bật của hồ sơ hóa thạch là không có bằng chứng nào cho sự tiến hóa cả.” (In short, if evolution means the gradual change of one kind of organism into another kind, the outstanding characteristic of the fossil record is the absence of evidence for evolution.) [78]

Tiến sĩ Colin Patterson (1933~1998) [79] là nhà cổ sinh vật học người Anh và là chuyên gia có thẩm quyền về nghiên cứu hóa thạch. Ông đã làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên (Natural History Museum) ở London từ năm 1962 đến năm 1993. Trong một bài giảng vào năm 1981 tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ (American Museum of Natural History), ông nói rằng: “Quý vị có thể nói cho tôi biết bất cứ điều gì về sự tiến hóa,” ông hỏi thính giả của mình, “bất kỳ điều gì, dù chỉ là một bằng chứng thực sự?” (“Can you tell me anything about evolution”, he asked his listeners, “any one thing, that is true?”)

Vào ngày 10/04/1979, Tiến sĩ Patterson đã gửi một bức thư cho kỹ sư hàng không vũ trụ người Mỹ Luther Sunderland với tiêu đề: “Không có bất kỳ hóa thạch nào có thể chứng minh cho thuyết tiến hóa!!” (Not one fossil of evidence fossil for evolution!!) Nội dung được trích lược như sau:

“Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của ngài về việc thiếu minh họa trực tiếp đối với quá trình chuyển đổi tiến hóa trong cuốn sách của tôi. Nếu tôi biết bất kỳ thứ gì, hóa thạch hay sinh vật sống, tôi chắc chắn sẽ đưa chúng vào [sách]. Ngài gợi ý rằng mời một nghệ sĩ tới để hình tượng hóa những quá trình biến đổi này, nhưng anh ta sẽ lấy thông tin từ đâu? Tôi không thể cung cấp nó một cách trung thực, nếu tôi để người nghệ sĩ tùy ý phát huy, điều này có gây hiểu lầm cho độc giả không?

…… Tuy nhiên, ngài Gould và những người của Bảo tàng Hoa Kỳ khó có thể phủ nhận khi họ nói rằng không có hóa thạch chuyển tiếp. Bản thân là một nhà cổ sinh vật học, tôi bận rộn với các vấn đề triết học trong việc xác định các dạng tổ tiên trong hồ sơ hóa thạch. Ngài nói rằng ít nhất tôi nên ‘đưa ra một bức ảnh hóa thạch mà từ đó từng loại sinh vật được hình thành.’ Tôi sẽ thẳng thắn nói rằng – không có một hóa thạch nào như vậy để người ta có thể đưa ra lập luận chặt chẽ. Lý do là những tuyên bố về tổ tiên và dòng dõi không thể áp dụng cho hồ sơ hóa thạch.” [80]

(I fully agree with your comments on the lack of direct illustration of evolutionary transitions in my book. If I knew of any, fossil or living, I would certainly have include them. You suggest that an artist should be asked to visualize such transformations, but where would he get the information from? I could not honestly provide it, and if I were to leave it to artist licence, would not this mislead the reader?

……Yet Gould and the American Museum people are hard to contradict when they say there are no transitional fossils. As a paleontologist myself, I am much occupied with the philosophical problems of identifying ancestral forms in the fossil record. You say that I should at least “show a photo of the fossil from which each type of organism was derived.” I will lay it on the line – there is not one such fossil for which one could make a watertight argument. The reason is that statements about ancestry and descent are not applicable in the fossil record.)

Thư của Tiến sĩ Patterson gửi kỹ sư Sunderland vào năm 1979: “Không có bất kỳ một hóa thạch nào có thể chứng minh cho thuyết tiến hóa!!” (Ảnh chụp màn hình trang web)
Thư của Tiến sĩ Patterson gửi kỹ sư Sunderland vào năm 1979: “Không có bất kỳ một hóa thạch nào có thể chứng minh cho thuyết tiến hóa!!” (Ảnh chụp màn hình trang web)

1.3 “Vượn người tiên tổ” không tồn tại

Trong phân loại sinh học hiện đại, con người thuộc chi người (Homo), phân họ người (Hominidae), bộ linh trưởng (Primates), lớp động vật có vú (Mammalia), ngành động vật có xương sống (Chordata), giới động vật (Animalia) [81]; còn loài vượn hiện đại thuộc vượn tay dài (Hylobatidae), họ người (Hominidae), bộ linh trưởng (Primates), lớp động vật có vú (Mammalia), ngành động vật có xương sống (Chordata), giới động vật (Animalia) [82].

Giả thuyết tiến hóa cho rằng cả người và vượn đều có một tổ tiên chung được gọi là “vượn thủy tổ,” trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, “vượn thủy tổ” đã dần dần tiến hóa thành hai loài khác nhau là người hiện đại và khỉ hiện đại.

Lý thuyết và hình ảnh trực quan về quá trình tiến hóa từ linh trưởng nguyên thủy đến con người đã được in trong sách giáo khoa trong hơn một trăm năm, ngoài ra còn có một số bằng chứng khảo cổ học tuyên bố đã tìm thấy “vượn người tiên tổ.” Tuy nhiên, những cái gọi là bằng chứng này có thực sự tồn tại hay không?

Nếu chúng ta tìm thấy một vài bộ phận bị hỏng nằm rải rác trên đường cao tốc như gương, lốp xe, tấm kim loại, v.v., làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng tất cả chúng đều đến từ cùng một chiếc sedan? Chúng thậm chí có thể không đến từ một chiếc sedan, mà là từ một chiếc xe máy hoặc xe bán tải.

Hầu hết các hóa thạch được tìm thấy đều là lẻ tẻ rải rác, xương hàm ở chỗ này, xương chân hoặc răng ở chỗ kia, các khoa học gia nhất định phải làm rõ liệu các mảnh đó có đến từ cùng một cá thể hay không, mức độ khó khăn cho việc này là có thể hình dung ra được. Độ khó của việc tái tạo lại sinh mệnh nguyên thủy từ những mảnh hóa thạch, cũng giống như cố gắng mô tả một tòa nhà phức hợp khi nó đã đổ nát chỉ còn sót lại một mảnh tường vậy.

Tuy nhiên, ngữ khí chắc chắn của giáo viên trong lớp học và mô hình tái tạo bộ xương của thuyết tiến hóa trong bảo tàng sẽ khiến học sinh và du khách lầm tưởng rằng đã tìm thấy “mắt xích còn thiếu.” Rất ít người nhận ra rằng những mô hình tái tạo này đã được chứng minh là chắp vá lại với nhau, và không phải là vượn người tiên tổ.

Mô hình chắp vá của người và tinh tinh được trưng bày cạnh nhau tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ (AMNH). (Ảnh: Nhóm biên soạn “Nhìn thấu thuyết tiến hóa”)
Mô hình chắp vá của người và tinh tinh được trưng bày cạnh nhau tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ (AMNH). (Ảnh: Nhóm biên soạn “Nhìn thấu thuyết tiến hóa”)

Những hóa thạch người vượn nổi tiếng nhất được cho là “mắt xích còn thiếu” giữa vượn người cổ đại và người hiện đại là người Neanderthal, người vượn Lucy ở Đông Phi, người Java ở Indonesia v.v.

1.3.1 Người Neanderthal không phải là tổ tiên loài người

Vào năm 1857, những mảnh sọ người và một số mảnh xương khác đã được phát hiện trong các hang động đá vôi ở Thung lũng Neanderthal, tây bắc nước Đức. Giáo sư giải phẫu học Hermann Schaaffhausen (1816~1893) ở thành phố Bonn, Đức phân tích các mảnh hóa thạch này, thấy rằng trán thấp và hẹp, gờ mày lớn gần như nối liền với nhau tạo thành một khối phồng ngang, vòm đỉnh phẳng và hộp sọ có kích thước bất thường. Ông đã bị chấn động. Ông cho rằng hài cốt này thuộc về “một chủng tộc chưa khai hóa và man rợ,” có thể coi là những cư dân cổ xưa nhất ở Âu Châu [83].

Quan điểm của ông Schaffhausen đã được một người tán thành giả thuyết tiến hóa, nhà sinh học, giải phẫu học người Anh Thomas Henry Huxley (1825~1895) ủng hộ. Một mặt, ông Huxley thừa nhận rằng hộp sọ của người Neanderthal rất tương tự với hộp sọ của loài vượn, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng nó có thể được đặt trong mắt xích tiến hóa từ vượn thành người, cho rằng mắt xích trung gian của quá trình tiến hóa từ vượn thành người đã được tìm thấy.

Đến năm 1864, Tiến sĩ William King (1809~1886), nhà giải phẫu học ở Ireland đã tuyên bố rằng đó là hài cốt thuộc về một loài người vượn giữa người và vượn, đồng thời đặt tên cho nó là “người Neanderthal” (Homo neanderthalensis). [84]

Tuy nhiên, Gs.Ts Rudolf Virchow (1821~1902), người sáng lập ngành tế bào học đương đại và là nhà nghiên cứu bệnh học nổi tiếng, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng đã cho rằng đó là hài cốt của một ông lão bị bệnh khớp. Giáo sư Virchow phủ nhận bộ hài cốt đó là bằng chứng hóa thạch của con người sơ khai. [85]

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Matthias Krings thuộc Viện Động vật học, Đại học Munich, Đức (Zoological Institute, University of Munic) đã tiến hành phân tích vùng siêu biến đổi của DNA ty thể (mtDNA) trong xương của “người Neanderthal.” Họ phát hiện “người Neanderthal” không phải là tổ tiên của người hiện đại, và cho rằng người Neanderthal đã tuyệt chủng mà không đóng góp gene cho người hiện đại. Luận văn của họ đã được công bố trên tạp chí uy tín “Cell” vào năm 1997. [86]

Sau đó, Tiến sĩ Krings đã nghiên cứu lại gene tại vùng siêu biến II của DNA ty thể (mtDNA) của xương “người Neanderthal” và xác nhận rằng, mtDNA của người Neanderthal nằm ngoài cây phát sinh loài có liên quan đến mtDNA của con người hiện đại. Điều này đã củng cố thêm cho kết quả nghiên cứu “người Neanderthal” không phải là tổ tiên của người hiện đại hồi năm 1997. Luận văn của ông đã được công bố trên tạp chí uy tín “Kỷ yếu Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ” (PNAS) vào năm 1999 [87].

Nói tóm lại, đã có nhiều nghiên cứu khác nhau bác bỏ kết luận “người Neanderthal là tổ tiên của người hiện đại.” Mặc dù các tạp chí “Science” [88] và “Nature” [89] sau này đã báo cáo những điểm tương đồng vô cùng nhỏ giữa gene của người Neanderthal và người hiện đại, nhưng điều đó cũng không thay đổi kết luận rằng “người Neanderthal” không phải là tổ tiên của loài người.

1.3.2 Lucy không phải là tổ tiên chung của vượn và người

Vào năm 1974, mẫu hóa thạch “Lucy” đã được phát hiện ở Đông Phi, được xếp vào loài “Australopithecus afarensis” và từng được coi là tổ tiên chung của vượn và người.

Nếu là bộ xương của “vượn người thủy tổ” thì nó phải có những đặc điểm chung giữa người và vượn. Các khớp tay chân của con người hầu như thẳng và kéo dài, trong khi các khớp của khỉ thường cong. Đây là điều có thể nhận thấy rõ ràng về mặt giải phẫu.

Tuy nhiên, một bài viết của nhà giải phẫu học Jack Stern và Randall L. Susman của Trung tâm Khoa học Y tế – Đại học New York được công bố trên tạp chí “Nhân học Sinh học Hoa Kỳ” (American Journal of Physical Anthropology) vào năm 1983 cho rằng, đầu gối của Australopithecus không có đặc điểm hiện đại ở mức độ rõ ràng, cấu trúc tổng thể khớp gối của nó tương thích với mức độ vận động lớn của động vật sống trên cây, hơn nữa nó có các ngón tay và ngón chân dài, cong, là đặc trưng của các loài sống trên cây [90].

Mặc dù bài báo có tựa đề “Liệu Lucy có thực sự đứng trên đôi chân của mình?” (Did Luky actually stand on her own two feet?) của tờ “New York Times” được phát hành vào năm 1983, là thời điểm các khoa học gia đang tranh luận về việc Lucy có đi thẳng hay không [91], nhưng khi ngày càng có nhiều bằng chứng được phát hiện sau đó, danh tính thực sự của Lucy đã lộ diện.

Tiến sĩ Charles Oxnard, cựu giáo sư giải phẫu và sinh học người tại Đại học Tây Úc đã tiến hành phân tích hóa thạch Australopithecus bằng máy tính, ông kết luận rằng Australopithecus không liên quan đến tổ tiên của con người, mà chỉ là một loài vượn đã tuyệt chủng. Kết luận này đã được công bố vào năm 1987 trong cuốn sách “Fossils, Teeth, and Sex: New Perspectives on Human Evolution” (Tạm dịch: Hóa thạch, răng và giới tính: Những quan điểm mới về sự tiến hóa của loài người) do Đại học Washington phát hành. (The australopithecines may well have been sibling groups to both the African apes and humans. This is an idea that would remove the australopithecines from being closely related to the human lineage and would place them unequivocally within an evolutionary radiation. Of these lineages, some, australopithecines, became extinct; some African apes, are almost extinct; only one genus, Homo, survives strongly at the present time). [92]

Trong một bài báo có tựa đề “Problems with Lucy and Skull 1470” (Lucy và vấn đề xương sọ 1470) đăng trên trang web của Đại học North Carolina tại Chapel Hill, Giáo sư David Plaisted, Tiến sĩ khoa học máy tính tại Đại học Stanford đã trích dẫn quan điểm và bằng chứng của ba vị, Stern, Susman và Oxnard nêu trên. [93]

Vào năm 2012, một bài báo trên tạp chí “Science” đã phân tích hóa thạch xương bả vai của các cá thể Australopithecus afarensis và phát hiện rằng, nó vẫn giữ các đặc điểm của việc leo trèo và là một loài leo trèo tích cực [94].

Vì vậy, có rất nhiều bằng chứng cho thấy Australopithecus afarensis là một loài vượn đã tuyệt chủng. Đến đây, địa vị “vượn người thủy tổ” của Luky không còn đứng vững được nữa.

Mặc dù vậy, người ta vẫn tạc tượng Lucy, gắn tay và chân người lên đó rồi đưa vào trong viện bảo tàng, khiến mọi người lầm tưởng rằng Lucy là tổ tiên chung của con người và loài vượn, và con người là do khỉ tiến hóa thành.

1.3.3 Người Java chắp vá

Gs.Ts Eugene Dubois (1858~1940) là bác sĩ nội khoa kiêm nhà giải phẫu học người Hà Lan. Vào năm 1891, ông đã tìm thấy một hộp sọ, một mảnh xương đùi và ba chiếc răng ở Sangiran, đảo Java, Indonesia; chúng được ghép lại và gọi là “người đàn ông Java” (Java man) sống vào thời rất xa xưa.

Sau đó đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra về mẫu vật này. Đầu tiên, không rõ liệu những chiếc xương này có đến từ cùng một loài hay không, chúng rất có khả năng là được chắp vá lại. Một số khoa học gia cho rằng phát hiện của Giáo sư Dubois chỉ là một con vượn, một số người khác thì cho rằng đó là một bộ xương người hiện đại bị bệnh, còn có một số người lại cho rằng đó là sự kết hợp giữa xương đùi của người hiện đại và hộp sọ của vượn. Sir Arthur Keith (1866~1955), nhà giải phẫu học tại Đại học Cambridge đã nghiên cứu và phát hiện, hộp sọ được phát hiện kia rõ ràng là của con người ngày nay, dung lượng não của nó nằm trong phạm vi dung lượng não của con người hiện đại. [95]

Giáo sư Rudolf Virchow, một nhà nghiên cứu bệnh học được mệnh danh là “Cha đẻ của bệnh học,” mới đầu đã rất hào hứng với phát hiện “Java man.” Ông đã đích thân đến thăm giáo sư Dubois và mời ông đến diễn thuyết ở Berlin, đồng thời phát hành sáu luận văn về khám phá mới này vào năm 1895. Mặc dù vậy, Giáo sư Virchow vẫn không thể chấp nhận phát hiện của Dubois là sự bổ sung cho cây tiến hóa của loài người. Không thể phủ nhận rằng chiếc xương đùi có đặc trưng của người nguyên thủy, còn chiếc hộp sọ thì giống vượn hơn. Ông phân loại những di cốt này thuộc về hai sinh vật khác nhau, cho rằng chiếc xương đùi ốm yếu là của con người, trong khi hộp sọ là của một con vượn rất lớn. [96]

Nói tóm lại, tất cả những hóa thạch từng được người ta coi là “tổ tiên của loài người” như “người Neanderthal” và “Lucy” đều không phải là tổ tiên của loài người; “Java man” là thứ được chắp vá từ các loại xương động vật khác nhau; ngoài ra còn có “người Piltdown” và “Nebraska man” cũng đã bị phát hiện là trò lừa gạt, không có một cái nào có thể được chứng minh là tổ tiên xa xưa của người và vượn.

Tổ tiên giả định của “người vượn” cho đến nay vẫn chưa được tìm thấy, còn giả thuyết “con người tiến hóa từ khỉ” thì vẫn chưa được nghiệm chứng bằng hóa thạch.

1.4 Không có loài trung gian giữa khủng long và chim

Chim thủy tổ (Archaeopteryx) từng được coi là loài trung gian giữa khủng long và chim, và được dùng để chứng minh thuyết tiến hóa của Darwin.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu đối với Archaeopteryx, lông vũ, xương, cấu trúc não và cấu trúc tai trong của nó đều rất giống với các loài chim hiện đại [97]. Cấu trúc tai trong của Archaeopteryx cho thấy nó có thính giác và cảm giác thăng bằng rất tốt.

Nhà cổ sinh vật học Alan Feduccia thuộc Khoa Động vật học tại Đại học North Carolina cũng đã chỉ ra trên tạp chí “Science” rằng, các phiến lông trong các lông bay chính của Archaeopteryx phù hợp với mô hình bất đối xứng ở các loài chim ngày nay, sự bất đối xứng này biểu thị cho khả năng bay của chúng [98]. Ở đây giải thích một chút, lông vũ trên cơ thể của các loài chim ngày nay là đối xứng, sự bất đối xứng chủ yếu thể hiện ở lông bay, đặc biệt là sự bất đối xứng của các phiến lông tiếp xúc với luồng không khí khi đang bay.

Những đặc điểm này cho thấy Archaeopteryx đã có những điều kiện cần thiết để bay, chứ không phải là một giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình tiến hóa.

Hóa thạch Archaeoraptor được cho là bằng chứng tốt nhất về sự tiến hóa từ khủng long ăn thịt thành chim. Vào tháng 3 năm 2001, Tiến sĩ Timothy B. Rowe thuộc Khoa Khoa học Địa chất tại Đại học Texas ở Austin đã công bố nghiên cứu về hóa thạch Archaeoraptor tại các địa tầng kỷ Phấn trắng ở Trung Quốc trên tạp chí “Nature.” Nghiên cứu của ông phát hiện hóa thạch này là giả mạo, là sự kết hợp giữa đuôi của một con khủng long và bộ xương của một loài chim nguyên thủy [99].

Các đồng tác giả của bài viết này bao gồm: Tiến sĩ Richard A. Ketcham, nhà khoa học tại Khoa Khoa học Địa chất; Tiến sĩ Matthew Colbert, trợ lý nghiên cứu viên; Tiến sĩ Cambria Denison ở phòng thí nghiệm Cổ sinh vật có xương sống; Từ Tinh (Xing Xu) ở Viện Cổ sinh vật có xương sống và Cổ sinh vật học, Viện nghiên cứu Trung ương Bắc Kinh, Trung Quốc, và Tiến sĩ Philip J. Currie ở Bảo tàng Cổ sinh vật học Hoàng gia Tyrrell, Drumheller, Alberta, Canada.

Do đó, có rất nhiều bằng chứng cho thấy Archaeopteryx không phải là loài trung gian giữa chim và khủng long, cũng như không có loài trung gian nào giữa hai loài này.

1.5 Đặc điểm của các hóa thạch thách thức “giả thuyết tiến hóa”

Như chúng tôi đã đề cập ở trên, Tiến sĩ Patterson, chuyên gia hóa thạch người Anh, không muốn sử dụng hóa thạch giả để đánh lừa công chúng vì ông phát hiện rằng không có hóa thạch nào có thể chứng minh cho giả thuyết tiến hóa. Đây có thể nói là sự thức tỉnh đầu tiên sau khi ông Patterson nhận ra sai lầm của “giả thuyết tiến hóa,” còn nghiên cứu về hóa thạch của nhà cổ sinh vật học người Mỹ Gould sau đó là một bước tiến thực chất hơn.

Vào những năm 70 của thế kỷ 20, Giáo sư Cổ sinh vật học Stephen Jay Gould (1941~2002) của Đại học Harvard đã đánh giá lại toàn bộ các hóa thạch từ khắp nơi trên thế giới. Ông kết luận rằng, lịch sử của tuyệt đại đa số các sinh vật hóa thạch đều chứa hai đặc điểm mâu thuẫn với phương thức tiến hóa từ từ của giả thuyết tiến hóa [100]:

(1) Tính ổn định: Ngoại hình của đa số các loài xuất hiện trong địa tầng đều giống hệt như khi bị đào thải. Ngay cả khi có những thay đổi về hình dạng, chúng cũng rất hạn chế và không thể hiện ra chiều hướng tiến hóa.

(2) Đột ngột xuất hiện: Kết quả các cuộc khảo sát trên thế giới đã khẳng định, không phải loài nào cũng dần dần biến đổi từ “tổ tiên,” trái lại, các loại sinh vật khi xuất hiện đều đã “hoàn toàn hoàn chỉnh.”

Nói tóm lại, nếu tiến hóa có nghĩa là sự thay đổi dần dần của một sinh vật thành một sinh vật khác, thì đặc điểm nổi bật của hồ sơ hóa thạch chính là không có bằng chứng cho sự tiến hóa.

Ví dụ, một sinh vật cổ đại tên là “bọ ba thùy” đã được các nhà khảo cổ học phát hiện là sống trên Trái Đất của chúng ta từ 600 triệu đến 260 triệu năm trước, từ 260 triệu năm trước trở về sau thì đã biến mất. Bọ ba thùy đã được chứng minh là một trong những sinh vật tồn tại lâu nhất ở thời tiền sử. Kể từ khi được phát hiện cho đến khi nó biến mất hoàn toàn, thời gian trôi qua là 340 triệu năm, nhưng bọ ba thùy vẫn là bọ ba thùy, nó không hề có sự tiến hóa nào cả. Nó thực sự không hề tiến hóa trong 340 triệu năm cho đến khi tự nhiên biến mất. Điều này có thể chứng minh rằng không tồn tại một bằng chứng mạnh mẽ nào cho thuyết tiến hóa.

Vậy nên, hóa thạch không những không thể ủng hộ cho giả thuyết tiến hóa mà còn đặt câu hỏi sâu sắc về khả năng “tiến hóa từ từ.”

Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 2): Phá bỏ suy nghĩ sai lầm kinh điển trong thuyết tiến hóa (P.1)
Tính ổn định và sự xuất hiện đột ngột của hóa thạch là thách thức đối với giả thuyết tiến hóa. (Ảnh: Epoch Times)

1.6 Hóa thạch kỷ Cambri: Sự bùng nổ của sự sống

Kỷ Cambri vào khoảng 541 triệu đến 485.4 triệu năm trước là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử của sự sống trên Trái Đất.

Trước kỷ Cambri, không có động vật phức tạp nào và hồ sơ hóa thạch là vô cùng ít ỏi. Vào năm 1909, người ta đã phát hiện một số lượng lớn hóa thạch động vật biển từ kỷ Cambri tại Burgess Shale ở Canada. Các hóa thạch bao gồm 20 đến 35 Ngành khác nhau như động vật chân đốt, tay cuộn, giun, thân lỗ, dây sống v.v. Có hơn 17,000 loài được biết là đã sống sót đến kỷ Permi cách đây 250 triệu năm. Hiện tượng này được gọi là Sự bùng nổ của Sự sống vào kỷ Cambri (Cambrian Life’s Explosion) [101].

Động vật chân đốt mang tính biểu tượng của kỷ Cambri là bọ ba thùy. Bọ ba thùy có cơ thể phẳng, phân đoạn và mạ tầng, điều này giúp bảo vệ chúng trong một đại dương có nhiều động vật ăn thịt. Bọ ba thùy có rất nhiều loại và kích cỡ, có chiều dài từ 1mm đến hơn 2 feet (0.6 mét), nó đã được chứng minh là một trong những loài động vật thời tiền sử tồn tại thành công và lâu dài nhất.

Dấu vết trên đá của bọ ba thùy từ 500 triệu năm trước. Bọ ba thùy thuộc lớp Bọ ba thùy, là động vật chân đốt hình nhện biển đã tuyệt chủng. (Ảnh: Merlin74/Shutterstock)
Dấu vết trên đá của bọ ba thùy từ 500 triệu năm trước. Bọ ba thùy thuộc lớp Bọ ba thùy, là động vật chân đốt hình nhện biển đã tuyệt chủng. (Ảnh: Merlin74/Shutterstock)
Kỷ Cambri có rất nhiều loại hóa thạch. (Ảnh: Marcel Clemens/Shutterstock)
Kỷ Cambri có rất nhiều loại hóa thạch. (Ảnh: Marcel Clemens/Shutterstock)

Các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện hiện tượng tương tự trong khi nghiên cứu về nhóm hóa thạch Trừng Giang ở Trung Quốc, xác nhận sự xuất hiện đột ngột của sự sống. Họ đã tìm thấy hóa thạch của rất nhiều loại động vật khác nhau từ 530 triệu năm trước ở Trừng Giang, bao gồm động vật thân lỗ, sứa, xúc tu, giun, giun nhung, tay cuộn, các loại động vật chân đốt và bậc cao nhất của động vật có dây sống hoặc động vật không dây sống. [102]

Theo giả thuyết tiến hóa của Darwin, các sinh vật phải trải qua quá trình tiến hóa rất chậm trong thời gian dài, tích lũy các biến dị nhỏ và dần dần tiến hóa thành “chi” mới, “họ” mới và “ngành” mới thông qua chọn lọc tự nhiên. Đối chiếu với số lượng lớn các loài xuất hiện trong kỷ Cambri, chúng buộc phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài, nhưng tại sao những quá trình này lại không được ghi lại đầy đủ trong hồ sơ hóa thạch?

Đây là một câu hỏi rất then chốt. Trên thực tế, rất có khả năng là do sinh mệnh không phải bắt nguồn từ một quá trình tiến hóa lâu dài mà là một sự kiện đột ngột, có thể thực sự tồn tại cái gọi là thời kỳ “khởi nguyên của sự sống.”

Vào năm 1972, Giáo sư Cổ sinh vật học Stephen Jay Gould tại Đại học Harvard và Gs.Ts Niles Eldredge, nhà Cổ sinh vật học kiêm người phụ trách Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ đã cùng đưa ra “thuyết cân bằng ngắt quãng” (punctuated equilibrium), cho rằng các loài trải qua tình trạng đình trệ trong thời gian dài, sau đó là sự thay đổi nhanh chóng trong thời gian tương đối ngắn bởi các sự kiện độc lập, chẳng hạn như sự hình thành của một thảm họa địa chất lớn, sau đó duy trì sự ổn định lâu dài, trong thời gian này dường như trong cơ thể sinh vật không có sự biến đổi. [103]

Nói tóm lại, sự bùng nổ sự sống ở kỷ Cambri thực sự là một sự kiện rất kỳ lạ, chắc chắn phát hiện này đã mang đến những thách thức không nhỏ cho giả thuyết tiến hóa.

1.7 Nghiên cứu DNA ty thể: con người và hầu hết động vật đều bằng tuổi nhau

Trong siêu thị, mỗi mặt hàng đều có mã vạch để làm dấu hiệu phân biệt; tương tự như vậy, các loài khác nhau trên Trái Đất cũng có một mã vạch nằm trên gene có thể đại diện cho danh tính của loài này, được gọi là mã vạch DNA (DNA barcoding).

Để nhận dạng các loài động vật, gene COI (cytochrom c oxidase I) của ty thể thường được sử dụng làm trình tự mã vạch DNA phổ quát. [104]

Vào năm 2018, ông Mark Stoeckle, trợ lý nghiên cứu cao cấp tại Đại học Rockefeller, New York và ông David Thaler tại Đại học Basel ở Thụy Sĩ đã công bố một luận văn nghiên cứu trên tạp chí “Human Evolution.” Trong đó, họ đã cùng hàng trăm nhà nghiên cứu trên khắp thế giới tiến hành nghiên cứu về 100,000 loài động vật và 5 triệu ảnh chụp gene từ cơ sở dữ liệu GenBank của Hoa Kỳ. Họ phát hiện, dựa vào tính đa dạng nucleotide trong vùng COI của các cá thể khác nhau trong cùng một loài, sẽ có thể tính được thời gian mà loài này xuất hiện lần đầu tiên. [105]

Kết quả đáng ngạc nhiên nhất của nghiên cứu này, đó là sự đa dạng di truyền COI của mã vạch DNA của hầu hết các loài trên Trái Đất là “gần như giống nhau.” Nói cách khác, 9/10 các loài trên Trái Đất ngày nay, bao gồm người, chim, cá, gấu, v.v., đều được hình thành trong khoảng từ 100,000 đến 200,000 năm trước, mà không phải tiến hóa từ từ như cây tiến hóa mô tả.

Nghiên cứu này đã được nhiều trang báo chính thống đăng tải lại, bao gồm cả Yahoo và Phys.Org [106], trang theo dõi thông tin khoa học mới nhất ở Anh quốc. Phóng viên Marlowe Hood của AFP đã thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với các nhà nghiên cứu, sau đó đăng một bài bình luận nói rằng, việc các loài sinh vật xuất hiện đột ngột với số lượng lớn là hoàn toàn khác biệt với giả thuyết tiến hóa cho rằng “các loài sinh ra thông qua quá trình tiến hóa từ từ.” Ông David Thaler, một trong những nhà nghiên cứu, khi được phỏng vấn đã gọi đó là “sự bối rối của Darwin.”

Một luận văn khác từ Đại học Rockefeller công bố trên Phy.Org [107] cho biết, một phát hiện thú vị khác của nghiên cứu này là xét từ đặc điểm của gene, rất khó để tìm ra “loài trung gian” – bước đệm của sự tiến hóa giữa các loài. Khi được phỏng vấn, Tiến sĩ Thaler cho biết: “Lý giải của Darwin về ‘nguyên nhân của sự vắng mặt các loài trung gian’ vẫn là một vấn đề rất lớn.”

Tiến sĩ Thaler bổ sung thêm: “Nghiên cứu này là một phương pháp mới cho thấy các loài là ‘hòn đảo trong không gian theo trình tự.’ Mỗi loài đều có trình tự chung rất hẹp và rất cụ thể của riêng mình, giống như hệ thống điện thoại của chúng ta có các mã số ngắn và duy nhất để phân biệt các thành phố với các quốc gia.”

Tiến sĩ Thaler còn nói rằng: “Nếu các cá thể là các hành tinh, thì các loài chính là các tinh hệ. Chúng là các cụm sao dày đặc trong không gian mêng mông rộng lớn.”

Một bài đánh giá trên tờ “Evolution News & Science Today” có tựa đề “Con người và động vật (phần lớn) đều cùng độ tuổi?” đã nêu bật một khám phá về nguồn gốc của các loài hoàn toàn khác với giả thuyết tiến hóa [108]. Nghiên cứu này chỉ ra một quy luật gần như giống với hiện tượng xuất hiện đột ngột của các sinh vật kỷ Cambri – tức là sự sống dường như luôn xuất hiện đột ngột trong một khoảng thời gian nhất định mà không phải tiến hóa từ từ.

Nhân loại nên nghiêm túc xem xét và nghiên cứu vấn đề này, tiếp nhận, tiếp thu hoặc đưa ra những học thuyết mới với một tinh thần cởi mở hơn thì mới có thể tìm ra câu trả lời đích thực về nguồn gốc của sinh mệnh.

1.8 Hóa thạch kể lại những câu chuyện gì?

Thông thường, xác động vật và thực vật sẽ biến mất rất nhanh sau khi tử vong, vì động vật ăn xác thối và vi sinh vật sẽ nhanh chóng phân hủy chúng. Một số lượng lớn hóa thạch động vật và thực vật sở dĩ được bảo tồn là vì chúng đã được chôn ngay sau khi chết. Trừ khi bị chôn vùi nhanh chóng và hóa đá ngay sau đó, nếu không thì di thể của đa số các sinh vật sẽ không thể bảo tồn.

Hiện tượng hóa thạch thực ra là gợi ý về sự tồn tại của các thảm họa. Hồ sơ địa chất học cho thấy sự tồn tại của các sự kiện thảm họa, và tuổi địa chất của hóa thạch có thể chính xác là thời điểm xảy ra thảm họa. [108] (xem “Chương 8” để biết chi tiết).

Vào ngày 08/11/2021, tờ “The Deseret News” đã đăng tải một bài viết với tựa đề “Tại sao hóa thạch 300 triệu năm tuổi được phát hiện ở Utah này lại khiến giới cổ sinh vật học xôn xao” (Why this 300 million-year-old fossil discovered in Utah has the paleontology) [110]. Bài báo đưa tin: Một bộ xương sống hóa thạch 300 triệu năm tuổi đã được khai quật tại Công viên Quốc gia Canyonlands ở Utah. Nó dài khoảng 1.5 feet (45.72cm), có xương sống giống như động vật có vú, có trước hóa thạch khủng long lâu đời nhất khoảng 50 triệu năm. Theo giả thuyết tiến hóa của Darwin, loài động vật có vú có xương sống sớm nhất là Morganucodon [111], xuất hiện vào đầu kỷ Jura cách đây khoảng 205 triệu năm, nhưng chiều dài của nó chỉ có 10cm, tương đương với kích thước của một con chuột nhà. Làm thế nào mà một động vật với xương sống lớn như vậy lại xuất hiện vào 300 triệu năm trước?

Theo giả thuyết tiến hóa, loài người “tiến hóa” dần dần từ thực vật, động vật, vượn người, xảo nhân (Homo habilis), trực nhân (Homo erectus), trí nhân (Homo sapiens) v.v. mãi cho đến khi con người hiện đại xuất hiện tại thời kỳ đồ đá mới vào khoảng 10,000 năm trước Công nguyên [112]. Nhưng những khám phá địa chất cho thấy tại những niên đại xa xôi hơn trước khi nhân loại xuất hiện đã tồn tại dấu chân của con người, điều này càng khiến người ta khó lý giải [113]. (Xem “Chương 8” để biết thêm chi tiết).

Nói tóm lại, những sự thực như hiện tượng bùng nổ sự sống đã được chứng minh bằng các hóa thạch kỷ Cambri, con người và hầu hết các loài động vật được sinh ra trên Trái Đất ở cùng độ tuổi được phát hiện bởi nghiên cứu về DNA ty thể, sự xuất hiện của động vật có xương sống khổng lồ cách đây 300 triệu năm, v.v. là những đòn tấn công mạnh mẽ đối với giả thuyết tiến hóa của Darwin.

Các hóa thạch không những không ủng hộ giả thuyết tiến hóa mà dường như còn kể một câu chuyện khác về nguồn gốc của sinh mệnh, là một phiên bản khác với phiên bản về khái niệm “tiến hóa dần dần” của Darwin.

Các loài sinh vật trên Trái Đất rất khó có thể tiến hóa đơn lẻ, tuyến tính và từ từ như Darwin đã nói, mô hình đó khó có thể giải thích khám phá của các khoa học gia. Phát hiện của các nhà khoa học luôn cho thấy rằng sự sống trên Trái Đất có thể đã phát sinh theo một hình thức bùng nổ và lặp đi lặp lại nhiều lần.

Nói cách khác, trong một thời gian rất dài sau khi sự sống bùng nổ, chúng đã bị tuyệt chủng bởi các sự kiện thảm họa; sau đó lại tái sinh, lại tuyệt chủng, tuần hoàn lặp lại, như vậy mới có thể giải thích một cách hợp lý cho các kết quả nghiên cứu khoa học khác nhau đã nêu ở trên.

2. Không phải “chọn lọc tự nhiên” mà là “thiết kế có chủ ý”

Giả thuyết tiến hóa cho rằng tất cả các sinh vật, bao gồm cả động vật, thực vật và nấm, đều cạnh tranh với nhau để sinh tồn trong quá trình tiến hóa lâu dài, kết quả là kẻ thích nghi nhất thì sống sót, còn kẻ yếu bị loại bỏ. Quá trình này được gọi là “chọn lọc tự nhiên.”

Darwin cho rằng: “Nếu chúng ta xem mỗi loài sinh vật là hậu duệ của một loài chưa biết, thì cha mẹ của chúng và tất cả các loài chuyển tiếp có lẽ đã bị tiêu diệt bởi chính quá trình hình thành và hoàn thiện của loài mới.” (Hence, if we look at each species as descended from some other unknown form, both the parent and all the transitional varieties will generally have been exterminated by the very process of formation and perfection of the new form.) [114]

Vào khoảng giữa thế kỷ 20, Gs.Ts Richard Goldschmidt (1878~1958), nhà động vật học và di truyền học nổi tiếng tại Đại học California, Berkeley đã bình luận: “Có một điều nên ghi nhớ rằng… chưa từng có ai thành công trong việc tạo ra dù chỉ một loài mới bằng cách tích lũy các đột biến vi mô. Lý thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin chưa bao giờ có bất kỳ bằng chứng nào, nhưng nó lại được chấp nhận rộng rãi. Không thể hình thành bất kỳ loài mới nào bằng đột biến vi mô. Sự thật về tiến hóa vi mô [sự thay đổi trong loài] không đủ để hiểu về tiến hóa vĩ mô [sự thay đổi từ loài này sang loài khác].” (It is good to keep in mind … that nobody has ever succeeded in producing even one new species by the accumulation of micromutations. Darwin’s theory of natural selection has never had any proof, yet it has been universally accepted. It’s impossible by micro-mutation to form any new species. The facts of microevolution [change within the species] do not suffice for an understanding of macroevolution [theorized change from one species to another) [115]

2.1 Tại sao cổ của hươu cao cổ lại dài như vậy

Cổ của hươu cao cổ (Giraffa camelopardalis) luôn là chủ đề nghiên cứu nóng hổi của các khoa học gia kể từ khi Darwin đưa ra giả thuyết tiến hóa. Hươu cao cổ có cổ và chân rất dài, đây là đặc điểm có một không hai trong số các loài động vật có vú.

Những lời giải thích được những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa đưa ra là “giả thuyết thiếu thức ăn ở chỗ thấp” và “giả thuyết lựa chọn giới tính.”

Ví dụ, họ cho rằng tổ tiên của hươu cao cổ có thể đã phải đối mặt với thách thức thiếu lương thực, vậy nên những con vật này bắt đầu tiến hóa thành cổ dài hơn, để vươn tới cành lá cao hơn. Những cá thể có cổ dài này có lợi thế hơn những cá thể khác cùng loại vì chúng có thể kiếm được nhiều thức ăn hơn, có cơ hội sống sót cao hơn và có thể sinh sản dễ dàng hơn. Quá trình tiến hóa lâu dài này cuối cùng đã dẫn đến sự xuất hiện của hươu cao cổ hiện đại. [116]

Đầu tiên, có một số vấn đề logic cơ bản với những suy luận này:

Thứ nhất, nếu cổ của hươu cao cổ tiến hóa do thiếu thức ăn, thì không thể chỉ có hươu cao cổ gặp phải tình trạng như vậy, mà hẳn là có cả ngựa cao cổ, cừu cao cổ, gia súc cao cổ, v.v., nhưng mọi người đều không nhìn thấy những con vật này. Nói cách khác, những động vật khác sống cùng thời điểm với hươu cao cổ như ngựa, trâu bò, cừu đều không tiến hóa thành cổ dài, chúng đã sống sót, điều này cho thấy ở chỗ thấp vẫn có đủ thức ăn cho động vật.

Nếu ở những chỗ thấp cũng có thức ăn, tại sao hươu cao cổ lại tiến hóa thành cổ dài để kiếm thức ăn ở những nơi cao hơn? Chúng có thể tiến hóa thành lưỡi dài hơn hoặc thay đổi thói quen ăn uống, chẳng hạn như có thể ăn các loại thức ăn khác, hoặc tiến hóa ra các khả năng thích nghi khác để hấp thụ các loại thức ăn. Rõ ràng có những vấn đề về mặt logic trong “giả thuyết thiếu thức ăn ở chỗ thấp.” Điều thú vị hơn là, chúng ta vẫn thường nhìn thấy hươu cao cổ có thể ăn cỏ ở những chỗ đất thấp.

Thứ hai, những người ủng hộ thuyết tiến hóa sau này lại nói rằng hươu cao cổ có thể không chỉ do thiếu thức ăn mà còn có thể do chọn lọc giới tính, tức là những cá thể có cổ dài có khả năng dễ thu hút bạn tình hơn. [117] [118]

Tuy nhiên, có rất nhiều cách để thu hút bạn tình, chẳng hạn như tăng màu sắc, sức mạnh, v.v. Tại sao hươu cao cổ phải tốn nhiều sức lực và thời gian như vậy để “vất vả” tiến hóa ra chiếc cổ dài nhằm tăng sức hút với bạn khác giới? Chẳng phải các loài khác dù không có chiếc cổ dài vẫn đều có cách tìm bạn đời hay sao? Điều này cho thấy “giả thuyết lựa chọn giới tính” cũng không thể đứng vững.

Thứ ba, những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa lại đưa ra một ý tưởng mới, đó là cổ của hươu cao cổ dài ra để tăng tính cảnh giác, giúp nó có thể chạy nhanh hơn khi gặp thiên địch. Họ cho rằng tổ tiên của hươu cao cổ giống với loài hươu đùi vằn (Okapia johnstoni), họ hàng gần duy nhất của hươu cao cổ chưa bị tuyệt chủng. Chúng sống trong rừng rậm, nơi có thảm thực vật phong phú giúp chúng dễ dàng tránh khỏi những kẻ săn mồi. [119]

Họ cho rằng hươu cao cổ sống ở đồng cỏ, tương đối thoáng và không có nơi ẩn nấp. Khi gặp kẻ săn mồi, chúng cần phải chạy để thoát thân. Trên thảo nguyên rộng lớn, việc tăng chiều cao và chiếc cổ dài có thể giúp hươu cao cổ nhìn xa hơn, dễ dàng phát hiện thiên địch sớm hơn, từ đó kịp thời chạy trốn.

Nói tóm lại, những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa cho rằng hươu cao cổ có cổ và chân thon dài để tăng cường cảnh giác, chạy nhanh hơn khi gặp kẻ săn mồi, nhờ đó cải thiện tỷ lệ sống sót.

Tuy nhiên, có một số vấn đề với giả thuyết này: dù hươu cao cổ có cảnh giác đến đâu thì cũng không cảnh giác bằng báo hoa mai, chân dài đến đâu thì cũng không chạy nhanh bằng báo hoa mai; hơn nữa tại sao phần lớn động vật có tính cảnh giác cao, phản ứng nhanh nhạy và chạy nhanh trên đồng cỏ Phi Châu lại có chân ngắn? Đồng thời, do chiều dài của cổ và chân tăng lên, nó cũng trở nên lớn hơn và dễ bị kẻ thù phát hiện hơn. Vì vậy, logic của giả thuyết này cũng không thể đứng vững.

Những suy luận từ góc độ của thuyết tiến hóa trên đều có những sai lầm logic nghiêm trọng. Ngoài ra, xét từ quan điểm sinh học, cũng tồn tại những vấn đề nghiêm trọng khi dùng thuyết tiến hóa để giải thích chiếc cổ dài của hươu cao cổ.

1. Trải qua thời gian dài: Quan điểm của Darwin về sự tiến hóa dần dần là thay đổi từng chút một, cổ dài hơn một chút, trái tim lớn hơn một chút và cơ bắp khỏe hơn một chút. Ngay cả khi sự tiến hóa như vậy là có thể xảy ra thì cũng sẽ cần một thời gian rất dài. Trước khi nó “tiến hóa” thành một chiếc cổ đủ dài thì môi trường sống của nó có thể đã trải qua những thay đổi to lớn. Hơn nữa, không tìm thấy loại hóa thạch hươu cao cổ trung gian nào, chứng tỏ quá trình này chưa từng xảy ra.

2. Xác suất cực nhỏ: Một loài muốn biến đổi thành một loài khác, thì không chỉ là biến đổi cục bộ mà còn là biến đổi mang tính hệ thống trong toàn bộ cơ thể. Ví dụ, khi cổ dài ra, trái tim cũng cần trở nên mạnh mẽ hơn mới có thể vận chuyển được máu đến nơi cao hơn, hệ thống kiểm soát huyết áp cũng cần được cải thiện; khi chân dài ra, xương, mạch máu, cơ và dây thần kinh cũng phát triển theo. Những thay đổi này cần phải được hoàn thành gần như đồng thời thì mới có thể sinh ra thành công một con hươu cao cổ chân dài, cổ dài.

Cấu trúc chuỗi xoắn kép DNA của động vật rất ổn định, mức độ biến dị rất nhỏ, hơn nữa mỗi lần chỉ có thể thay đổi một chút. Vậy nên, nếu muốn rất nhiều gene đồng thời đột biến theo cùng một hướng, đây là một sự kiện với xác suất nhỏ đến mức không thể nhỏ hơn được nữa.

Ngoài ra, những thay đổi trong các loài chuyển tiếp cũng cần đồng thời xảy ra ở nhiều cá thể trong cùng một loài, như thế mới có thể cho phép các gene chứa các đột biến quan trọng được truyền lại cho thế hệ sau. Sự kiện thậm chí còn ít khả năng xảy ra hơn này là quá xa vời để giải thích cho những thay đổi trong các loài sinh vật.

3. Biến dị bệnh lý: Mặc dù giả thuyết tiến hóa cho rằng đột biến gene là ngẫu nhiên, nhưng trên thực tế phần lớn đột biến gene đều là có hai (xem chi tiết tại “Chương 3”). Giáo sư bệnh học người Đức Rudolf Virchow cho rằng “việc bắt buộc phải cải biến các chuẩn mực sinh lý luôn tồn tại, điều này chỉ có thể gọi là dị thường. Vào thời cổ đại, những điều dị thường được gọi là bệnh hoạn (pathos), theo nghĩa này, mọi sai lệch so với bình thường, đối với tôi đều là một sự kiện bệnh hoạn.” [120]

Vậy nên, rất nhiều gene đồng thời biến dị và sai lệch theo cùng một hướng như vậy, đây không chỉ là sự kiện với xác suất nhỏ không thể nhỏ hơn, mà đối với một loài đang sống một cuộc sống bình thường và khỏe mạnh, nó rất có thể giống như một căn bệnh nghiêm trọng và gây nguy hiểm đến tính mạng.

Những lời giải thích của những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa về sự xuất hiện của hươu cao cổ, cũng giống như logic về việc gấu biến thành cá voi. Nó trông giống truyện cổ tích hay khoa học viễn tưởng, chứ không phải là một giả thuyết khoa học. Vì vậy, chúng ta cũng không cần phải dùng những lý luận cao siêu để giải thích, chỉ dùng kiến thức thông thường để phán đoán một chút là có thể phân tích ra được. Sự phức tạp của sinh mệnh không thể được giải thích bằng một giả thuyết tiến hóa như vậy.

Cổ của hươu cao cổ không phải là tiến hóa, mà là được thiết kế ra như vậy (Ảnh: Epoch Times)
Cổ của hươu cao cổ không phải là tiến hóa, mà là được thiết kế ra như vậy (Ảnh: Epoch Times)

Để “tiến hóa” ra chiếc cổ dài như hươu cao cổ đã vô cùng khó khăn như vậy, mà quá trình biến đổi từ sinh vật dưới nước thành sinh vật trên cạn cũng đòi hỏi hàng ngàn đột biến đồng thời ở các cấu trúc sinh lý cơ bản, bao gồm mắt, mũi, hệ tiêu hóa, phổi, cơ và xương v.v. Điều cần thiết hơn là thay đổi mã hóa và biểu hiện của rất nhiều gene để đạt được những thay đổi về kiểu hình ở cấp độ toàn bộ tế bào, mô, cơ quan và hệ thống. Rất nhiều sự kiện xác suất vô cùng nhỏ xảy ra cùng nhau như vậy, đây chỉ có thể là quá trình “thiết kế.”

Do đó, khi chúng ta phân tích các lý thuyết mà các nhà tiến hóa sử dụng để giải thích sự tiến hóa của hươu cao cổ, không khó để kết luận rằng: các loài không thể tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên, mà khả năng cao hơn là đã được thiết kế ra như vậy.

2.2 Con mắt khiến Darwin kinh ngạc

Vào năm 1860, Darwin đã viết cho Asa Gray (1810~1888) [121] (cha đẻ của ngành thực vật học Hoa Kỳ) rằng: “Tôi đồng ý về những điểm yếu [của nguồn gốc các loài]. Cho đến tận bây giờ, đôi mắt vẫn khiến tôi rùng mình ớn lạnh, nhưng khi tôi nghĩ đến những khác biệt vi tiểu đã biết, lý trí mách bảo tôi rằng tôi phải chế ngự được cái rùng mình ớn lạnh đó.” (About weak points [of the Origin] I agree. The eye to this day gives me a cold shudder, but when I think of the fine known gradations, my reason tells me I ought to conquer the cold shudder.) [122]

Darwin thừa nhận rằng ông đã bị ấn tượng bởi sự phức tạp của con mắt, thừa nhận rằng con mắt là một bí ẩn trong quá trình tiến hóa. Trong cuốn “Nguồn gốc các loài,” Darwin viết rằng: “Con mắt có thiết kế vô song để điều chỉnh tiêu điểm, cho phép thu được lượng ánh sáng khác nhau, đồng thời hiệu chỉnh quang sai hình cầu và màu sắc. Tôi thẳng thắn thú nhận giả thuyết cho rằng đôi mắt được hình thành do chọn lọc tự nhiên là điều có vẻ vô lý nhất.” (Organs of extreme perfection and complication. — To suppose that the eye, with all its inimitable contrivances for adjusting the focus to different distances, for admitting different amounts of light, and for the correction of spherical and chromatic aberration, could have been formed by natural selection, seems, I freely confess, absurd in the highest possible degree.) [123]

Hơn 160 năm qua, nan đề này đã được giải quyết chưa? Nó không những không được giải quyết mà còn ngày càng khiến mọi người bối rối hơn khi mọi người hiểu sâu hơn về các cấu trúc, tế bào, phân tử và quá trình sinh hóa tinh vi của các lớp khác nhau của con mắt.. Darwin đã cố gắng khắc phục nan đề này để biện hộ cho lý thuyết của mình, nhưng điều mà mọi người không thể không thừa nhận, đó là độ khó của việc này lớn đến mức không thể tưởng tượng được, chẳng khác nào “mò trăng đáy nước.”

Mắt là một cơ quan thần kỳ, nó sở hữu cấu trúc tinh tế, mỗi bộ phận đều thực hiện một chức năng quan trọng, cho phép chúng ta có thể cảm nhận và thưởng thức thế giới mỹ diệu này. Độ phức tạp của đôi mắt khiến người ta kinh ngạc, nó phức tạp hơn nhiều so với những thiết bị tinh vi nhất mà con người tạo ra.

Mắt người giống như một chiếc máy ảnh có thể điều chỉnh tiêu cự, kiểm soát lượng ánh sáng đi vào, hiệu chỉnh quang sai hình cầu và sắc độ. Mắt người có tầm nhìn rộng hơn nhiều so với máy ảnh, nó có thể thích ứng với các cường độ ánh sáng khác nhau. Ngay cả những ống kính máy ảnh tiên tiến nhất hiện nay, vĩ độ phơi sáng (phạm vi sáng nhất và tối nhất có thể chụp được) của nó cũng không rộng như phạm vi mà mắt người có thể nhìn thấy. Đôi mắt không chỉ có thể nhìn thấy hình dạng ba chiều của vật thể mà còn có tầm nhìn cực rộng, hình ảnh không bị biến dạng, chuyển động cũng không bị gián đoạn. Mắt hoạt động đồng thời cùng với bộ não, cho phép chúng ta nhìn thấy màu sắc, phân biệt các hoa văn và hình dạng, nhìn thấy hình ảnh lập thể, cho phép tầm nhìn của chúng ta theo dõi các vật thể hoặc hình ảnh chuyển động mà không bị nhòe.

Mắt người cũng giống như một siêu máy tính tiên tiến, không chỉ có khả năng xử lý thông tin đáng kinh ngạc mà còn hoạt động nhanh hơn và vượt trội hơn nhiều so với các công cụ, máy tính hay máy ảnh do con người tạo ra.

Con mắt thần kỳ sở hữu kết cấu tinh xảo. (Ảnh: Tài sản công)
Con mắt thần kỳ sở hữu kết cấu tinh xảo. (Ảnh: Tài sản công)

Võng mạc là một phần quan trọng của mắt, nó bao gồm 10 lớp được sắp xếp một cách có trật tự¹²⁴. Từ sâu đến nông là màng giới hạn trong (Internal limiting membrane), lớp sợi thần kinh (Nerve fiber layer), lớp tế bào hạch (Ganglion cell layer), lớp đám rối trong (Inner plexiform layer), lớp nhân bên trong (Inner nuclear layer), lớp đám rối ngoài (Outer plexiform layer), lớp nhân bên ngoài (Outer nuclear layer), màng giới hạn ngoài (External limiting membrane), lớp tế bào cảm quang (Photoreceptor layer) và biểu mô sắc tố võng mạc (Retinal pigment epithelium).

Chúng ta hãy tập trung vào một số tế bào then chốt trong đó:

1. Biểu mô sắc tố rất giàu hắc tố, giúp hấp thụ ánh sáng và ngăn phản xạ, từ đó bảo đảm tầm nhìn rõ ràng. Nó cũng hỗ trợ cho kết cấu và chức năng của các tế bào cảm quang, bảo vệ võng mạc và hình thành hàng rào võng mạc ngăn chặn các chất có hại xâm nhập. [125]

2. Có hai loại tế bào cảm quang [126] là tế bào hình nón (khoảng 4.5 triệu) và tế bào hình que (khoảng 91 triệu). Tế bào hình nón cho phép chúng ta nhìn thấy những hình ảnh đầy màu sắc và có độ nét cao; tế bào hình que nhạy cảm với ánh sáng hơn hàng nghìn lần so với tế bào hình nón, cho phép chúng ta nhìn thấy hình ảnh ngay cả trong môi trường thiếu sáng. Trên thực tế, trong điều kiện lý tưởng, một tế bào hình que thậm chí có thể cảm nhận được sự hiện diện của một photon (hạt cơ bản tạo nên ánh sáng)!

Điểm vàng (macula) là nơi thị lực sắc nét nhất, chứa nhiều tế bào cảm quang nhất. Chỗ lõm nông ở trung tâm của điểm vàng được gọi là hố mắt (fovea), mật độ tế bào hình nón ở đây tăng gần 200 lần.

Việc sinh ra thị giác nói thì dễ, nhưng kỳ thực đòi hỏi một loạt các phản ứng điện sinh hóa phức tạp giữa các tế bào võng mạc, thần kinh thị giác và tế bào não. Phản ứng này bắt đầu trong lớp tế bào cảm quang (Photoreceptor) của võng mạc. Tế bào cảm quang sở hữu một loại khả năng đặc biệt, có thể chuyển tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện. Những thứ tiếp theo giống như quân bài domino, phản ứng này nối tiếp phản ứng khác, cho đến khi sinh ra thị giác.

Tín hiệu ánh sáng chuyển thành tín hiệu điện như thế nào? Khi ánh sáng xuyên qua giác mạc, thủy tinh thể, dịch thủy tinh của mắt và đến các tế bào cảm quang của võng mạc, chúng được các tế bào cảm quang cảm nhận, các tế bào cảm quang giống như được bật công tắt và bắt đầu hoạt động. Trong các tế bào cảm quang có một loại phân tử đặc biệt gọi là “rhodopsin,” được cấu tạo từ retinal và opsin. Sau khi photon được rhodopsin hấp thụ dẫn đến sự thay đổi cấu trúc, nó sẽ kết hợp với một loại protein gọi là “transducin,” tiếp đó kết hợp với “phosphodiesterase” (PDE) để phân hủy một lượng lớn “cyclic guanosine monophosphate” (cGMP) – một loại phân tử tín hiệu quan trọng trong tế bào; tính thấm của các kênh ion natri giảm dẫn đến những thay đổi về điện thế tế bào, từ đó tạo ra các tín hiệu điện tế bào truyền đến tế bào lưỡng cực. [127]

3. Tế bào lưỡng cực có nhiệm vụ nhận thông tin từ tế bào cảm quang và truyền cho tế bào hạch. Tế bào hạch giúp truyền tín hiệu điện đến đại não thông qua các synapse. Trong đại não có rất nhiều cơ chế khác tham gia vào việc nhận biết và giải thích tín hiệu này. Chỉ khi chúng đều hoạt động bình thường thì mới có thể hình thành một hình ảnh rõ ràng, từ đó chúng ta mới có thể nhìn thấy vật thể.

4. Võng mạc cũng chứa rất nhiều tế bào hỗ trợ, trong đó quan trọng nhất là tế bào Müller. Chúng kết nối với các tế bào cảm quang và tạo thành một lớp dày đặc gọi là màng giới hạn ngoài. Những tế bào này giúp hấp thụ ánh sáng, đồng thời tạo thành phần mở rộng cuối cùng được bao phủ bởi màng đáy trên võng mạc, được gọi là màng giới hạn trong. Ngoài ra, võng mạc còn có các tế bào hỗ trợ khác giúp duy trì chức năng bình thường của mắt.

Cấu trúc và chức năng tinh xảo của đôi mắt người. (Ảnh: Ferrara, M., et al. 2021. Eye, 35[7], 1818-1832. https://doi.org/10.1038/s41433-021-01437-w)
Cấu trúc và chức năng tinh xảo của đôi mắt người. (Ảnh: Ferrara, M., et al. 2021. Eye, 35[7], 1818-1832. https://doi.org/10.1038/s41433-021-01437-w)

Xin lưu ý rằng, mỗi một khâu trong toàn bộ quá trình này đều không đơn giản, đều là những cấu trúc và chức năng đã được dày công thiết kế. Sự sắp xếp và vận hành giữa các bộ phận protein cũng không đơn giản, nó giống như một công cụ chính xác vô cùng phức tạp, chỉ khi các bộ phận được kết hợp lại thì mới có thể hoạt động. Chúng ta đều biết rằng đồng hồ Thụy Sĩ vô cùng chính xác, đôi khi vỏ của bộ chuyển động được làm trong suốt để mọi người có thể nhìn thấy các bánh răng và cơ chế vô cùng chính xác bên trong, sai một chút là khiến chiếc đồng hồ này không thể hoạt động. Kết cấu và chức năng của con đường truyền tải thị giác của mắt còn chính xác hơn hàng nghìn lần so với chiếc đồng hồ này! Ngay cả chiếc đồng hồ cũng cần phải được những người có tay nghề chuyên nghiệp thiết kế tỉ mỉ, thử hỏi con mắt vốn tinh xảo và phức tạp hơn nó rất nhiều có thể là do ngẫu nhiên mà sinh ra hay không? Nếu nó không phải được thiết kế, làm thế nào mà nó có thể được sinh ra?

Lấy một ví dụ khác, một cái bẫy chuột chỉ hoạt động khi các bộ phận của nó được lắp ráp trôi chảy. Một bộ phận đơn lẻ, chẳng hạn như chân đế, lò xo, thanh cố định, cung, mồi v.v. đều không thể gọi là cái bẫy chuột và không thể phát huy vai trò của cái bẫy chuột. Các bộ phận phải được đặt cùng vào đúng vị trí thì mới tạo ra một cái bẫy có thể bắt chuột. Đôi mắt cũng vậy, là cái gì đã kết hợp tinh vi và liên kết chính xác các bộ phận khác nhau của mắt khiến nó có được chức năng kỳ diệu như vậy?

Những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa lập luận rằng cơ hội thúc đẩy sự tiến hóa, nhưng liệu cơ hội, vào đúng thời điểm đó, có thể tập hợp tất cả các bộ phận lại với nhau thành một cỗ máy phức tạp như vậy không? Hơn nữa, nguồn gốc kết cấu của mắt, chẳng hạn như nguồn gốc các tế bào cảm quang của võng mạc là từ đâu? Làm sao để tiến hóa ra quá trình sinh lý, sinh hóa và cấu trúc phức tạp mà hiệu quả liên quan đến việc tạo ra thị giác? Về điều này, họ không thể đưa ra lời giải thích hợp lý.

Giả thuyết tiến hóa cho rằng đôi mắt được truyền lại cho thế hệ tiếp theo thông qua một chuỗi dài các thay đổi ngẫu nhiên, mỗi thay đổi đều làm cho sinh vật phù hợp hơn với cuộc sống. Nhưng hầu hết các loài động vật đều sống ở đồng cỏ, rừng rậm và bầu trời với môi trường tương tự nhau, tại sao tròng đen của chúng lại có nhiều màu sắc như vậy? Còn nữa, tại sao ruồi phải tiến hóa ra phức nhãn? Điều này có nhất định liên quan đến chọn lọc tự nhiên và cạnh tranh sinh tồn hay không?

Con mắt khiến Darwin cảm thấy “rùng mình.” (Ảnh: Epoch Times)
Con mắt khiến Darwin cảm thấy “rùng mình.” (Ảnh: Epoch Times)

Giáo sư hóa sinh nổi tiếng người Mỹ Michael Behe (1952-) đã nói rằng: “Chọn lọc tự nhiên – cơ sở cho giả thuyết tiến hóa của Darwin – chỉ có ý nghĩa nếu có sự chọn lọc, và sự chọn lọc đó áp dụng cho hiện tại, không phải là tương lai.” [128]

Giả thuyết tiến hóa của Darwin chỉ xoay quanh sự sinh tồn và sinh sản, nhiều nhất cũng chỉ có thể đáp ứng nhu cầu của môi trường sống hiện tại, bởi vì do nhu cầu của môi trường mới sinh ra một số cơ quan hoặc chức năng nhất định. Mà trong giới sinh vật, có rất nhiều chức năng sinh học không cần thiết cho sinh sản và sinh tồn.

Máy ảnh, kính viễn vọng và kính hiển vi đều cần con người thiết kế và chế tạo, hơn nữa không thiết bị nào trong số này có thể được chế tạo tốt hơn con mắt. Con mắt tinh diệu phức tạp này lẽ nào không phải được thiết kế ra hay sao? Làm sao có thể xảy ra trường hợp những con mắt kỳ diệu này tiến hóa ra một cách tình cờ thông qua một loạt các sự kiện ngẫu nhiên?

Chương 6 của cuốn “Nguồn gốc các loài” đề cập đến “Những khó khăn của lý thuyết,” Darwin viết trong phần “Các cơ quan vô cùng hoàn hảo và phức tạp” rằng: “… thật không thể tin được rằng một con mắt hoàn hảo và phức tạp có thể được hình thành do chọn lọc tự nhiên, điều này kỳ thực là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, rất khó để có thể được coi là thật.” (then the difficulty of believing that a perfect and complex eye could be formed by natural selection, though insuperable by our imagination, can hardly be considered real.) [129]

Mặc dù Darwin thừa nhận rằng sự tinh diệu và phức tạp của con mắt là không thể giải thích được, nhưng ông vẫn cố thủ ý tưởng của mình và không chịu từ bỏ, cũng giống như tâm thái bảo thủ của rất nhiều người ủng hộ Darwin trong thời hiện đại.

Giáo sư Michael Behe từng nói rằng: “Giới khoa học bị tê liệt khi đối mặt với sự phức tạp to lớn của tế bào mà hóa sinh học hiện đại phát hiện. Không có một nhà khoa học nào của Harvard, Viện Y tế Quốc gia hay Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, cũng không có một người đạt giải Nobel nào có thể trình bày chi tiết cách thức tạo ra lông mao của vi khuẩn, thị giác của con người hoặc quá trình đông máu, hoặc làm thế nào phát triển ra bất kỳ quá trình sinh hóa phức tạp nào theo phương thức của Darwin. Nhưng chúng ta đang tồn tại ở đây. Thực vật và động vật đang tồn tại ở đây. Các hệ thống phức tạp đang tồn tại ở đây. Tất cả những điều này bằng cách nào đó đã đến đây: nếu không phải theo cách của Darwin, thì bằng cách nào?” (In the face of the enormous complexity that modern biochemistry has uncovered in the cell, the scientific community is paralyzed. No one at Harvard University, no one at the National Institutes of Health, no member of the National Academy of Sciences, no Nobel prize winner—no one at all can give a detailed account of how the cilium, or vision, or blood clotting, or any complex biochemical process might have developed in a Darwinian fashion. But we are here. Plants and animals are here. The complex systems are here. All these things got here somehow: if not in a Darwinian fashion, then how?) [130]

Nhà sinh vật học phân tử, vi sinh học nổi tiếng, Gs.Ts Ian Macreadie của Viện Công nghệ Melbourne, Australia từng nói: “Thuyết tiến hóa cho rằng mọi thứ đều sẽ được cải thiện, còn tôi lại thấy mọi thứ đang sụp đổ. Gene bị gián đoạn và đột biến (lỗi xảy ra khi DNA được sao chép qua mỗi thế hệ) dẫn đến các bệnh di truyền, từ đó tạo ra gánh nặng ngày càng tăng cho cộng đồng. Tất cả mọi thứ đều đã được thiết kế cẩn thận ngay từ đầu.” (Evolution would argue for things improving, whereas I see everything falling to pieces. Genes being corrupted, mutations [mistakes as DNA is copied each generation] causing an increasing community burden of inherited diseases. All things were well designed initially.) [131]

3. Tưởng chừng “thoái hóa cấu trúc,” kỳ thực lại “có tác dụng lớn”

Ông Jean-Baptiste Lamarck, nhà sinh vật học người Pháp đã giải thích lý thuyết “sử dụng hoặc mất” trong cuốn “Triết học động vật” (Philosophie zoologique), lập luận rằng các sinh vật sống thay đổi tập tính của chúng dưới ảnh hưởng trực tiếp của môi trường mới, một số cơ quan được sử dụng thường xuyên sẽ trở nên phát triển hơn và mạnh mẽ hơn, trong khi các cơ quan ít được sử dụng sẽ bị thu nhỏ về cấu trúc và dần dần thoái hóa về chức năng.

Darwin đã xuất bản cuốn “Nguồn gốc các loài” vào năm 1859 dựa trên lý thuyết “sử dụng hoặc mất” do Lamarck đề ra. Giả thuyết tiến hóa coi “sử dụng hoặc mất” là một trong những động lực của sự tiến hóa, cho rằng những thứ vô dụng sẽ mất khả năng cạnh tranh và sẽ thoái hóa hoặc bị đào thải.

Tuy nhiên, kích thước của cơ quan không nhất thiết sẽ trực tiếp tương ứng với độ mạnh yếu về chức năng. Những chức năng thoái hóa mà mọi người vẫn nghĩ không hẳn là vô dụng.

Ví dụ, nếu con người thực sự tiến hóa từ loài khỉ, thì bộ lông trên da khỉ có thể giữ ấm, vậy tại sao nó lại bị loại bỏ? Tại sao con người cần mọc tóc? Từ quan điểm làm thế nào để có lợi hơn cho sự sinh tồn, dường như tóc không hề có công dụng lớn hơn lông mao, vậy tại sao con người lại phải mọc thêm tóc trong khi lông mao trên cơ thể đã “thoái hóa”?

3.1 Hậu quả sau khi cắt amidan

Amidan là mô bạch huyết bao gồm bốn phần: amidan khẩu cái, amidan lưỡi, amidan vòm và amidan eustachian, chúng cùng nhau tạo thành một vòng phòng thủ vững chắc được gọi là vòng Waldeyer [132]. Đây là tuyến phòng thủ đầu tiên của cổ họng, ngày đêm canh giữ “pháo đài” cổ họng chống lại vi khuẩn và virus do không khí và thức ăn mang vào.

Do amidan vòm có xu hướng nhỏ lại ở cuối thời thơ ấu và gần như biến mất hoàn toàn ở tuổi thiếu niên, nên y học hiện đại thường coi amidan là cơ quan thoái hóa, cho rằng nó vô dụng, một khi chúng bị viêm và sưng tấy nhiều lần thì nên làm phẫu thuật cắt bỏ.

Kỳ thực không phải vậy, amidan là một cơ quan miễn dịch, mặc dù có vẻ như một số bộ phận đã bị thu nhỏ lại, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không có chức năng. Nghiên cứu khoa học hiện đại đã phát hiện, nếu cắt bỏ amidan sẽ có thể dẫn đến

một loạt bệnh kinh niên, làm tăng khả năng mắc bệnh nhiễm trùng và các bệnh khác trong cơ thể.

Vào năm 2018, tập san học thuật “JAMA Otolaryngology” đã công bố kết quả của một nghiên cứu theo dõi lâu dài đối với gần 1.2 triệu trẻ em trong vòng 10 đến 30 năm. Nghiên cứu cho thấy việc loại bỏ amidan hoặc amidan vòm trong thời thơ ấu có liên quan đến việc tăng đáng kể nguy cơ phát triển các bệnh về đường hô hấp, dị ứng và truyền nhiễm trong cuộc sống sau này. Cụ thể, những người đã cắt bỏ amidan có nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp trên tăng gần 300%; những người đã loại bỏ amidan vòm có nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tăng hơn 100%, nguy cơ bị bệnh đường hô hấp trên và viêm kết mạc cũng tăng gần 100%. [133]

Một nghiên cứu của Đài Loan phân tích dữ liệu từ 1,300 bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ amidan và một nhóm đối chứng tương ứng gồm 2,600 người (những người không cắt bỏ amidan). Họ phát hiện rằng, những bệnh nhân cắt bỏ amidan có nguy cơ mắc hội chứng ruột kích thích cao gần gấp đôi so với những người không cắt amidan. [134]

Một nghiên cứu của Thụy Điển theo dõi hơn 80,000 người đã cắt bỏ amidan hoặc ruột thừa trước 20 tuổi, cho thấy họ có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn trong thời gian sau này, trong đó nguy cơ cao nhất là những người trải qua cả hai cuộc phẫu thuật. [135]

3.2 Chức năng độc đáo của tuyến tùng

Tuyến tùng hay còn gọi là thể tùng quả (pineal gland) nằm phía sau đồi thị, núp dưới cuống nối với đỉnh não thất 3. Nó phát triển rất nhanh trong thời thơ ấu, sau 20 tuổi, nó bắt đầu suy yếu về chức năng, sau đó vôi hóa và teo lại.

Tuy nhiên, tuyến tùng teo lại không có nghĩa là chức năng của nó tàn lụi hay thoái hóa. Người ta đã phát hiện tuyến tùng vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống nội tiết, thần kinh, thị giác, sinh sản và miễn dịch trong suốt cuộc đời của con người.

1. Tiết melatonin [136]: Tuyến tùng tiết ra melatonin, chất điều chỉnh đồng hồ sinh học và giấc ngủ. Chức năng của tuyến tùng có liên quan đến cảm nhận ánh sáng và nhịp điệu theo mùa. Tế bào thần kinh trong tuyến tùng có thể cảm nhận mức độ ánh sáng trong môi trường, vì vậy chúng có thể giúp điều chỉnh mức độ nhạy cảm của cơ thể với ánh sáng.

2. Liên quan đến hiệu ứng nhận thức ánh sáng [137]: Thông tin nhận thức ánh sáng được đưa đến tuyến tùng thông qua con đường đa dây thần kinh phức tạp bắt đầu từ võng mạc. Giữa tuyến tùng, habenula (bộ phận hãm cuống tuyến tùng) và võng mạc có mối liên kết với nhau.

3. Ảnh hưởng đến tuyến sinh dục: Tuyến tùng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cơ thể con người bằng cách điều chỉnh việc tiết hormone giới tính.

4. Ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch: Tuyến tùng có thể ảnh hưởng đến chức năng của tế bào lympho T.

Bệnh nhân có khối u tuyến tùng thường có biểu hiện tê liệt hướng nhìn lên trên. Việc cắt bỏ khối u tuyến tùng đã được thực hiện ở những bệnh nhân như vậy, mặc dù bệnh nhân có xu hướng cải thiện các triệu chứng nhìn lên sau phẫu thuật, nhưng vẫn có sự suy giảm thị lực lâu dài một cách rõ ràng, đặc biệt là rối loạn hội tụ phức tạp và rối loạn điều tiết. [138]

3.3 Tuyến ức có thực sự bị teo lại không?

Tuyến ức nằm ở phần trước của trung thất trên và phía sau xương ức, được chia thành hai thùy trái và phải, có dạng một dải phẳng dài, hai thùy được nối với nhau bằng mô liên kết. Là cơ quan miễn dịch trung ương, tuyến ức chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống miễn dịch của con người và có một vai trò vô cùng quan trọng. [139] Nó là “đại bản doanh” cho tế bào lympho T phát triển và biệt hóa.

Tuy nhiên, do vào thời thơ ấu tuyến ức hoạt động rất tích cực, đạt đến đỉnh điểm ở tuổi thiếu niên, sau đó dần dần thu nhỏ lại, nên tuyến ức cũng đã bị các nhà tiến hóa xem là cơ quan thoái hóa sau khi con người tiến hóa từ động vật, cho rằng nó không liên quan gì đến cơ thể con người và cắt bỏ cũng không có hại gì.

Nghiên cứu khoa học hiện đại đã phát hiện tuyến ức kiêm cả chức năng nội tiết. Tuyến ức không chỉ là cơ quan miễn dịch và tuyến nội tiết, mà còn có mối liên hệ hai chiều với hệ thần kinh nội tiết, hơn nữa tuyến ức còn là “đồng hồ thọ mệnh” của con người, có liên quan mật thiết đến độ dài tuổi thọ. [140]

Tây y đôi khi sẽ thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức trên những bệnh nhân mắc bệnh nhược cơ (một bệnh thần kinh cơ). Một nghiên cứu cho thấy phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tự miễn ở những bệnh nhân bị bệnh nhược cơ. [141]

Nói tóm lại, sự thoái hóa về hình dạng của các cơ quan này thực chất chỉ là quy luật trong quá trình phát triển của chúng, không phải là thể hiện của sự thoái hóa chức năng. Thuyết “sử dụng hoặc mất” của Lamarck là sai lầm, Darwin đã dùng nó để phát triển ra “giả thuyết tiến hóa,” việc này chính là sai càng thêm sai.

Con người có ngũ tạng câu toàn, mỗi cơ quan trong cơ thể con người đều hữu dụng. Chúng đã tồn tại, thì tất có tính hợp lý của chúng, chúng ta không thể nói một cách đơn giản rằng cơ quan nào đó hữu dụng và cơ quan nào đó vô dụng. Cơ thể con người là sự thống nhất và hòa điệu của các hệ thống cơ quan khác nhau, vì vậy những ai dự định loại bỏ cơ quan nào đó trên cơ thể thì nên suy nghĩ cẩn thận.

4. Không phải “cạnh tranh tàn khốc” mà là “cộng sinh cùng có lợi”

4.1 Nguồn gốc của tư tưởng cạnh tranh

Vào năm 1798, nhà kinh tế học và nhân khẩu học người Anh Thomas Robert Malthus [142] (1766-1834) đã đề xuất “Thuyết dân số” [143]. Đây là một trong những trụ cột cho giả thuyết tiến hóa của Darwin. Thuyết này cho rằng sự sinh sản và gia tăng dân số quá mức dẫn đến sự cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên và đào thải.

Trong cuốn sách “An Essay on the Principle of Population, as it Affects the Future Improvement of Society” (Tạm dịch: Tiểu luận về Nguyên tắc Dân số, vì nó Ảnh hưởng đến Sự Cải thiện Xã hội trong Tương lai), ông Thomas Robert Malthus đề cập: nguồn cung cấp thực phẩm không thể theo kịp dân số ngày càng tăng theo cấp số nhân; sự mất cân bằng giữa cung và cầu chắc chắn sẽ khiến một số người phải chịu số phận bi thảm là bị đào thải.

Vào thời của Darwin, lý thuyết của ông Malthus đã thâm nhập vào dòng tư tưởng chủ đạo của người Anh. Năm 1838, ở tuổi 29, Darwin cân nhắc về các cơ chế tiến hóa khả dĩ. Darwin đã đưa “đấu tranh sinh tồn” của Malthus vào “thuyết tiến hóa.” Trong cuốn “Nguồn gốc các loài,” Darwin nói rằng sinh vật, bất kể cùng loài hay khác loài, đều phải đối mặt với sự cạnh tranh sinh tồn; vì vậy, mặc dù sinh vật được sinh ra rất nhiều, nhưng không có nhiều cá thể có thể sống sót. Sinh vật trong tự nhiên cạnh tranh các nguồn tài nguyên sinh tồn hữu hạn để tồn tại, bao gồm không gian sống, thức ăn, bạn đời, v.v., lấy đó làm cơ sở cho sự tồn tại của các cá thể hoặc quần thể chiếm ưu thế.

4.2 Sự “cộng sinh cùng có lợi” giữa các sinh vật thách thức “quy luật cạnh tranh”

Trong tự nhiên xác thực có tồn tại hiện tượng một số cá thể sinh vật tranh giành thức ăn, nhưng Darwin đã nhầm lẫn khi mô tả nó như một quy luật tuyệt đối hóa, cực đoan hóa. Ông đã dùng mối quan hệ tàn khốc “mạnh được yếu thua” này để định nghĩa mối quan hệ giữa các sinh vật trong tự nhiên. Mối quan hệ phổ biến và thiết yếu giữa các sinh vật trong tự nhiên là phụ thuộc, hỗ trợ lẫn nhau, cộng sinh cùng có lợi [144] đã bị Darwin cố tình bỏ qua. Sau này, mối quan hệ cộng sinh này thực sự đã được các khoa học gia quan sát và phát hiện.

Ngay từ năm 1877, nhà sinh lý học thực vật người Đức Albert Bernhard Frank đã sử dụng thuật ngữ “cộng sinh” (symbiosis, từ từng được dùng để mô tả những người sống cùng nhau trong một cộng đồng), để mô tả mối quan hệ chung sống giữa nấm và tảo trong địa y. Vào năm 1879, nhà thực vật học người Đức Henrich Anton de Bary đã tóm lược ba tiêu chuẩn cho sự cộng sinh: hai loài khác nhau; chung sống cùng nhau; tiếp xúc gần gũi [145].

Vào giữa thế kỷ 20, các nghiên cứu về sinh thái học phát triển rất nhanh. Kết quả nghiên cứu về hệ sinh thái [146] cho chúng ta biết rằng: Bất kỳ loài hoặc cá thể nào trong tự nhiên đều nằm trong một hệ sinh thái nhất định; mối quan hệ phụ thuộc và cùng có lợi giữa loài với loài, giữa sinh vật với môi trường trong hệ sinh thái là quy luật phổ biến trong giới tự nhiên [147].

Ông Richard E. Lenski, Viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, đã từng quan sát thấy hiện tượng như vậy trong thí nghiệm E. coli của mình. Trong cùng một bình thí nghiệm đã xuất hiện hai loại vi khuẩn E. coli, một loại có khả năng sinh sản tương đối yếu và loại kia có khả năng sinh sản tương đối mạnh. Theo thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin, vi khuẩn có khả năng sinh sản mạnh hơn cuối cùng sẽ thay thế vi khuẩn có khả năng sinh sản yếu hơn. Thế nhưng, ông Lanski ngạc nhiên phát hiện, kết quả của thí nghiệm là hai loại vi khuẩn đã chung sống hòa bình với nhau, loại vi khuẩn yếu hơn không hề bị đào thải [148].

Giả thuyết tiến hóa của Darwin tương đương với một trận đấu vòng loại trong bóng đá, đội chiến thắng cuối cùng thường là đội mạnh nhất. Trên thực tế, mối quan hệ giữa các sinh vật không phải là mối quan hệ cạnh tranh như vậy, mà là chú trọng “sự đa dạng sinh học.” Mỗi cá thể sinh vật đều có những đặc điểm độc đáo riêng, hầu hết các loài đều có thể cùng nhau sinh sôi và phát triển.

Thứ hai, nghiên cứu khoa học cũng phát hiện, càng có nhiều loài thực vật sống trong cùng một khu vực, thì xu hướng sinh trưởng của quần thể thực vật nói chung sẽ càng hưng thịnh [149].

Hàng trăm nghiên cứu về hệ sinh thái trên cạn, dưới nước và dưới biển cho thấy, hệ sinh thái có nhiều loài sinh vật hơn – tức là hệ sinh thái có sinh học đa dạng hơn – có năng suất sinh học (productivity) gần gấp đôi hệ sinh thái chỉ có một loài duy nhất. Hơn nữa, sự khác biệt này sẽ tăng dần theo thời gian. (Năng suất sinh học được định nghĩa là “tỷ lệ sản xuất sinh khối” (biomass), thường được biểu thị bằng đơn vị khối lượng trên thể tích trên một đơn vị thời gian, chẳng hạn như gam/mét vuông/ngày) [150]. Lợi ích của đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái có liên quan đến tính bổ sung giữa các loài, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên hạn chế, tăng khả năng chống lại bệnh tật và nhiều lý do khác.

Các lý thuyết và thực nghiệm về đa dạng sinh học này đều có đặc điểm chung là cho phép rất nhiều loài cạnh tranh khác nhau cùng tồn tại trong một thời gian dài.

Do đó, nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau về sự cộng sinh đã thách thức mạnh mẽ giả thiết của Darwin về “cạnh tranh tự nhiên và kẻ thích nghi nhất sẽ tồn tại” [151].

Thứ ba, các sinh vật trên Trái Đất rất đa dạng và độc đáo, và chúng được kết hợp với nhau một cách rất tài tình. Quá trình quang hợp của cây xanh chuyển hóa quang năng thành hóa năng, trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp thức ăn cho mọi loài động vật; còn phân và xác động vật là nguyên liệu cho sự phát triển của thực vật. Dưới sự xúc tác của các enzym sinh học, thực vật có thể tổng hợp các loại chất hữu cơ phức tạp ở nhiệt độ và áp suất bình thường. Khi tất cả các sinh vật hô hấp, chúng cần hấp thụ O2 và thải CO2. Quá trình quang hợp của thực vật lại sử dụng CO2 để tổng hợp các loại chất hữu cơ, đồng thời giải phóng O2. Những sự sắp đặt tài tình này lẽ nào chỉ là kết quả của sự trùng hợp ngẫu nhiên?

Đột biến ngẫu nhiên không thể tạo ra hệ thống phức tạp và hiệu quả của sinh vật. Làm thế nào mà một hệ sinh thái bao gồm rất nhiều sinh vật kết hợp khéo léo với nhau lại là kết quả của những đột biến ngẫu nhiên?

Thứ tư, cộng sinh là cơ chế chính để các quần thể sinh thái được thiết lập và duy trì. Nếu mối quan hệ tự nhiên, cộng sinh cùng có lợi giữa các sinh vật bị hủy hoại, môi trường sinh thái bị phá hoại, thì có thể sẽ dẫn đến những thảm họa trong thế giới sinh vật.

Ví dụ, sử dụng các phương pháp trồng trọt truyền thống để trồng rau và trái cây thì không cần phân bón hóa học hay thuốc trừ sâu. Bởi vì trong tự nhiên cũng có một chuỗi sinh thái, côn trùng có kẻ thù tự nhiên của chúng, chẳng hạn như ếch và chim. Nếu con người can thiệp và sử dụng thuốc trừ sâu để loại bỏ côn trùng, vậy ếch và chim sẽ không có thức ăn, điều đó tương đương với việc phá hủy sự cân bằng sinh thái của tự nhiên.

Do đó, thuốc trừ sâu đã phá hủy mối quan hệ cộng sinh giữa các sinh vật. Ngoài việc tiêu diệt côn trùng hoặc cỏ dại, thuốc trừ sâu còn có thể gây ngộ độc cho nhiều sinh vật khác, bao gồm chim, cá, côn trùng có ích và thực vật; nếu thuốc trừ sâu phá hủy chuỗi sinh thái xung quanh đất, kết quả cuối cùng cũng sẽ gây hại cho con người [152].

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đang hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường sinh thái, con người đang ngày càng nhận thức rõ hơn về nhu cầu ăn thực phẩm hữu cơ. Cái gọi là “hữu cơ” chính là trong quá trình trồng trọt hoặc chăn nuôi nông nghiệp không sử dụng phân bón nhân tạo và các loại thuốc trừ sâu tổng hợp, thuốc kháng sinh hoặc hormone tăng trưởng, đồng thời không sử dụng bức xạ và kỹ thuật di truyền để biến đổi gene của cây trồng, không sử dụng các chất tổng hợp như chất bảo quản hóa học v.v. Các thực phẩm nông nghiệp và thực phẩm chế biến được sản xuất và chế biến theo cách này, mới có thể được tính là thực phẩm hữu cơ [153].

Vậy nên, cho dù đứng tại góc độ nào để phân tích, hiện tượng cộng sinh đều không phù hợp với tư tưởng cốt lõi của giả thuyết tiến hóa của Darwin. Mối quan hệ cộng sinh giữa các loài sinh vật là một thách thức thực sự đối với giả thuyết tiến hóa.

4.3 “Cộng sinh cùng có lợi” giữa con người và vi sinh vật

Giữa các loài có tồn tại mối quan hệ cân bằng sinh thái, giữa thực vật và động vật có tồn tại mối quan hệ tương hỗ, con người từ khi sinh ra đã có mối quan hệ mật thiết với vi sinh vật.

Cơ thể con người không phải là một cá thể đơn giản, mà là một “sinh vật siêu cấp” bao gồm các tế bào vi sinh vật và tế bào người. Cơ thể con người là một hệ sinh thái vi mô phức tạp, nơi sinh sống của hàng ngàn tỷ vi sinh vật, bao gồm cổ khuẩn (còn được gọi là vi sinh vật cổ), vi khuẩn và virus. Chúng phân bố trên da, miệng, khoang mũi, bộ phận sinh dục và đường ruột v.v. tạo thành hệ vi sinh vật của con người hay còn gọi là bộ gene thứ hai của con người [154].

Trong số đó, tổng số tế bào vi sinh vật trong đường tiêu hóa là khoảng 10¹⁴. Con người và vi khuẩn đường ruột đã thiết lập một hệ thống cộng sinh tương hỗ: loài trước cung cấp cho loài sau nhiệt độ thích hợp, chất dinh dưỡng phong phú, môi trường sống và hoàn cảnh sinh sản vượt trội; loài sau có thể khống chế sự phát triển của các tế bào biểu mô ruột, ngăn ngừa tổn thương tế bào, điều chỉnh việc lưu trữ chất béo của vật chủ, kích thích sự hình thành mạch ruột, xây dựng màng sinh học và các hàng rào miễn dịch khác, ức chế sự xâm nhập và xâm chiếm của vi khuẩn gây bệnh ngoại lai, giúp con người tiêu hóa các thành phần thực phẩm cao phân tử, tham gia vào quá trình chuyển hóa đường và protein, tổng hợp các vitamin và acid amin thiết yếu, đồng thời thúc đẩy cơ thể con người hấp thụ và sử dụng các chất dinh dưỡng.

Nghiên cứu khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, hệ trục vi sinh vật đường ruột-não bộ (Microbiota-gut-brain Axis, được hình thành giữa vi sinh vật đường ruột và não bộ con người) có liên quan mật thiết đến các loại bệnh của con người (bao gồm miễn dịch, ung thư, tim mạch, bệnh thoái hóa thần kinh, v.v.), thậm chí còn liên quan mật thiết đến những hoạt động tinh thần. Những hoạt động tinh thần này bao gồm nhận thức, hành vi xã hội, phản ứng với căng thẳng, v.v. Những vi sinh vật sống cộng sinh với con người chúng ta, có ảnh hưởng sâu sắc và có thể điều chỉnh cơ thể con người, đồng thời có những đóng góp quan trọng và không thể thay thế đối với sức khỏe.

Trong điều trị y tế, nếu lạm dụng kháng sinh sẽ rất dễ “lạm sát bừa bãi,” dẫn đến mất cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến khả năng miễn dịch của cơ thể và não bộ, thậm chí có thể gây bệnh.

Cách ăn uống nhiều muối cũng có thể ức chế sự tồn tại của hệ vi khuẩn bình thường trong ruột, dẫn đến mất cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột và các bệnh khác nhau như rối loạn chức năng miễn dịch v.v. [155].

Trên Trái Đất ngày nay, vi khuẩn, thực vật, động vật và con người đều dựa vào hệ thống cộng sinh và nhiều loại hệ thống khác để cùng tồn tại, phát triển và hưng thịnh, vừa hình thành hệ sinh thái và vừa tăng cường, bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học.

Tóm lại, cộng sinh là một quy luật phổ biến. Trong đó, các nhóm sinh vật trong tự nhiên, bao gồm cả con người, sẽ duy trì mối quan hệ tương hỗ. Do đó, giả thuyết tiến hóa của Darwin nhấn mạnh rằng các loài sinh học tiến hóa thông qua cạnh tranh, điều này về cơ bản là sai lầm. Cạnh tranh không phải là mục đích chính của sinh mệnh.

4.4 Gene không phải “ích kỷ,” mà là “vị tha”

Những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa nhìn thế giới này với suy nghĩ ích kỷ, mô tả các thuộc tính gene sinh học là vị tư, cho rằng mọi thứ đều là kết quả do gene ích kỷ mang đến.

Nhà sinh vật học tiến hóa và tác giả người Anh Richard Dawkins đã nói trong cuốn sách “The Selfish Gene” (Gene Vị Kỷ) của mình rằng [156], “Gene là đơn vị cơ bản của tính ích kỷ. Gene sở hữu tính bất tử tiềm tại, khiến chúng trở thành ứng cử viên sáng giá cho đơn vị cơ bản của chọn lọc tự nhiên.” “Tôi nghĩ đặc điểm chính của một gene thành công là tính ích kỷ tàn nhẫn. Tính ích kỷ của gene này thường dẫn đến tính ích kỷ trong hành vi cá nhân.” “Sau nhiều thế hệ chọn lọc tự nhiên, ‘quần thể vị tha’ bị lấn át và không thể phân biệt được với các quần thể ích kỷ nữa.”

Họ thậm chí còn đi xa hơn khi lập luận rằng, một con chim hoặc một con ong mạo hiểm tính mạng và sức khỏe của mình để đưa thế hệ sau tới thế giới này, không phải vì để giúp đỡ chính nó hoặc loài của nó, mà là để giữ cho các gene của nó tồn tại [157].

Ông Dawkins thực sự cho rằng sự cạnh tranh giữa các cá thể sinh vật mà Darwin đề ra là do sự cạnh tranh giữa các phiên bản gene khác nhau (được gọi là “alen”). Quan điểm của ông là thúc đẩy thuyết tiến hóa của Darwin đến cấp độ vi mô của gene, nhưng thực tế có phải như vậy hay không?

Sau khi ông Dawkins đưa ra lý thuyết này, nó đã bị các khoa học gia nghi ngờ. Vào năm 1999, trên tạp chí Advances In Complex Systems, Tiến sĩ Yaneer Bar-Yam, một chuyên gia về ứng dụng phân tích toán học của các hệ thống phức hợp ở Hoa Kỳ và là viện trưởng của Viện các Hệ thống Phức hợp ở New England, cho rằng: Thuyết gene ích kỷ có một lỗ hổng trí mạng [158]; các hiện tượng sinh học được nghiên cứu bằng mô hình gene ích kỷ tồn tại những sai lầm lớn, chỉ có thể áp dụng cho những quần thể sinh sản hữu tính dẫn đến sự giao phối hoàn toàn ngẫu nhiên của các alen. Một nhóm như vậy được gọi là quần thể “giao phối ngẫu nhiên” (panmictic) trong sinh học, thường được gọi là “hôn nhân mù quáng.” Nhưng trên thực tế, rất nhiều quần thể sinh vật không hề đáp ứng được điều kiện này. Ông Dawkins đã đơn giản hóa quá mức quần thể sinh vật, điều này không phù hợp với thực tế, quan điểm lấy gene làm trung tâm mà ông ấy đề ra không thể đại diện cho trạng thái chân thực của quần thể sinh vật. Khái niệm về “gene ích kỷ” là không tồn tại [159].

Vào năm 2011, tạp chí Science đã công bố một nghiên cứu thú vị về động vật. Những người làm thí nghiệm đã đặt một con chuột A vào lồng sắt, và quan sát hành vi của một con chuột B đang di chuyển tự do bên ngoài. Thí nghiệm này đã kiểm tra lặp lại hành vi của 30 con chuột B trong tình huống trên. Người ta thấy rằng tần suất hoạt động xung quanh lồng của những con chuột B tăng lên đáng kể, chúng đã tìm mọi cách để mở lồng cho đến khi giải cứu thành công con chuột A [160].

Ngoài ra, những con chuột có thể ăn ít nhất 7 miếng chocolate thay vì các loại thực phẩm thông thường khác, miễn là không có tình huống đặc biệt nào khác xảy ra. Những nhân viên thí nghiệm đã đặt con chuột B tự do trước hai chiếc lồng, một chiếc lồng chứa con chuột A bị nhốt, chiếc lồng thứ hai đặt chocolate mà những con chuột thích ăn. Một bên là sự cám dỗ của món ăn ngon, một bên là người bạn đồng hành đang gặp nạn, quý vị đoán xem chú chuột B này sẽ làm gì?

Những nhân viên thí nghiệm đã nhìn thấy một cảnh tượng tuyệt vời hơn. Con chuột B không hề thưởng thức chocolate một mình, mà ngược lại, nó đã mở hai chiếc lồng với tốc độ gần như nhau, sau đó còn lấy 30% số chocolate chia cho “người bạn gặp nạn.”

Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 2): Phá bỏ suy nghĩ sai lầm kinh điển trong thuyết tiến hóa (P.3)
Đối mặt với sự cám dỗ của món ăn ngon, còn bên kia là người bạn đồng hành đang gặp nạn, con chuột đã đưa ra lựa chọn vị tha. (Ảnh: Epoch Times)
Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 2): Phá bỏ suy nghĩ sai lầm kinh điển trong thuyết tiến hóa (P.3)
Con chuột đã mở lồng để giải cứu và chia sẻ chocolate với người bạn đồng hành bị mắc kẹt. (Ảnh: Epoch Times)

Theo lý thuyết của Dawkins, ông đánh đồng gene với hành vi cá nhân, cho rằng gene là chuột và chuột là gene. Tuy nhiên, kết quả của những thí nghiệm khoa học đối chiếu lặp đi lặp lại này đã cho thấy, hành vi của những con chuột khi đối mặt với lợi ích là vị tha. Nếu hành vi của chuột không ích kỷ, thì đặc điểm chính trong gene của chuột cũng không thể là ích kỷ.

Những con tinh tinh sẽ chải lông cho nhau và chia sẻ thức ăn với đồng loại. Chải lông cho nhau có thể mang lại lợi ích tức thì cho cả hai bên, còn chia sẻ thức ăn thường là để gắn kết tình cảm. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ những hành vi hợp tác này của tinh tinh ở mức độ nào, là vì lợi ích của đối phương hay là vì lợi ích của chính chúng.

Vào năm 2017, Kỷ yếu Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (Proceedings of the National Academy of Sciences, PNAS) đã công bố một nghiên cứu với tiêu đề “Tinh tinh trả ơn bằng cách hy sinh lợi ích cá nhân” (Chimpanzees return favors at a personal cost). Những thí nghiệm lặp đi lặp lại nhiều lần với loài hắc tinh tinh (Pan troglodytes) đã truyền rất nhiều cảm hứng cho chúng ta [161].

Đầu tiên, những con “tinh tinh đồng hành” được huấn luyện học cách vứt bỏ thói quen độc chiếm thức ăn, đồng thời trước nguy cơ bị mất thức ăn, nó sẽ trao quyền lựa chọn thức ăn cho những con “tinh tinh thử nghiệm.” Điều này có nghĩa là “tinh tinh đồng hành” đã được huấn luyện về lòng vị tha (altruism).

Con “tinh tinh thử nghiệm” nhìn thấy “tinh tinh đồng hành” giúp đỡ mình trước nguy cơ bị mất thức ăn. Để trả ơn đối phương, và do sự vị tha của đối phương dẫn động, chúng sẽ có hành động hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích cho người bạn

đồng hành. Kết quả này rõ ràng là có ý nghĩa về mặt thống kê.

Trong các thí nghiệm so sánh với các tình huống khác, các nhà nghiên cứu phát hiện “tinh tinh thử nghiệm” có thể hiểu và phân biệt rõ ràng các động cơ hành vi của “tinh tinh đồng hành.” Chúng có thể phân biệt hành vi thực sự vì xã hội, cũng chính là hành vi “vị tha” thực sự, với hành vi ích kỷ tiềm tàng.

Từ thí nghiệm này chúng ta có thể thấy, ngay cả động vật cũng có khả năng học cách từ bỏ lợi ích của bản thân và xuất ra hành động vị tha để giúp đỡ đồng loại; và hành vi vị tha của một cá nhân có thể ảnh hưởng tích cực đến những cá thể khác. Theo lý thuyết của Dawkins, nếu gene đều là ích kỷ, vậy làm thế nào những con vật này có thể hy sinh lợi ích của mình để giúp đỡ đồng loại? Điều này rõ ràng không nằm trong logic của Dawkins.

Trên thực tế, không chỉ gene không phải ích kỷ, mà hành vi của động vật cũng thường không phải ích kỷ, mà là vị tha. Hiện tượng vị tha thường đặc biệt nổi bật ở các quần thể côn trùng, chim, động vật có vú và trong xã hội nhân loại [162]. Cái gọi là “gene ích kỷ” hoàn toàn là thuyết pháp vô căn cứ.

Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 2): Phá bỏ suy nghĩ sai lầm kinh điển trong thuyết tiến hóa (P.3)
Phá bỏ bốn suy nghĩ sai lầm kinh điển của thuyết tiến hóa. (Ảnh: Epoch Times)

5. Không phải là “sự thật khoa học” mà là “lừa dối, giả mạo”

Kể từ khi Darwin đưa ra “thuyết tiến hóa,” không những không có bằng chứng nào chứng minh cho giả thuyết của ông, mà trên thực tế, trong các viện bảo tàng, luận văn khoa học và sách giáo khoa, có rất nhiều bằng chứng giả do các thế hệ sau bịa đặt để ủng hộ cho “giả thuyết tiến hóa.”

5.1 “Lý thuyết tái diễn phôi” giả tạo

Có lẽ hầu hết mọi người đều đã được dạy rằng: Trong giai đoạn phát triển ban đầu, phôi người sẽ trải qua các giai đoạn tương tự như quá trình tiến hóa của các loài động vật khác nhau, nó sẽ lặp lại quá trình tiến hóa, trải qua quá trình có mang như cá, có đuôi như khỉ, v.v.

Điều này xuất phát từ “Lý thuyết tái diễn phôi” (Ontogeny recaptulates phylogeny) [163] do Ernst Haeckel (1834-1919), Giáo sư Sinh học tại Đại học Jena ở Đức đưa ra vào năm 1866. Đây là một nội dung giảng dạy phổ biến trong sách giáo khoa sinh học trong hơn một trăm năm.

“Lý thuyết tái diễn phôi” thực chất là một giả thuyết do Haeckel bịa ra để ủng hộ cho “giả thuyết tiến hóa” của Darwin, hơn nữa giả thuyết này đã được chứng minh là sai lầm.

Vào năm 1997, nhà phôi học người Anh Michael K. Richardson và các khoa học gia khác đã công bố một bài báo trên tạp chí “Giải phẫu và Phôi học” (Anatomy and embryology). Họ đã đưa ra bằng chứng về sự giả tạo của Haeckel. Họ phát hiện phôi của các loài khác nhau rất khác nhau, mỗi loài đều có nét độc đáo riêng; trong quá trình phát triển phôi của các loài khác nhau, không có giai đoạn nào mà chúng có hình dạng tương tự nhau [164].

Ngoài ra, trong các tranh vẽ của Haeckel có thể còn có một số thao tác không phù hợp. Haeckel có thể đã cố tình lựa chọn các phôi động vật có hình thái gần giống nhau cho các bức vẽ của mình. Ông cũng sửa đổi các phôi người và động vật do các khoa học gia khác vẽ để tăng sự tương đồng giữa các phôi của các loài, đồng thời che giấu sự khác biệt giữa chúng.

Haeckel đã cố tình thêm bớt các cấu trúc phôi thai, thay đổi tỷ lệ và màu sắc của các bộ phận khác nhau. Ví dụ, ông đã loại bỏ các cơ quan nội tạng và chân của phôi người, khiến nó trở thành phôi có đuôi giống cá; nhãn cầu của phôi gà ban đầu không có màu, nhưng Haeckel đã tô chúng thành màu đen để phôi gà giống với phôi các động vật khác hơn; ông đã thêm một nét cuộn vào phôi chim để làm cho nó trông giống phôi người.

Ông Richardson đã phát hiện, ở giai đoạn mọc đuôi của động vật, sự khác biệt tối đa về chiều dài đuôi giữa các loài khác nhau là hơn 10 lần, nhưng Haeckel đã cố tình vẽ kích thước không khác nhau nhiều để đạt được mục đích phóng đại sự tương đồng giữa phôi của các loài.

Sau này, nhà báo khoa học người Mỹ Elizabeth Pennisi đã công bố một bài báo trên tạp chí Science để mô tả thêm về kết quả nghiên cứu của ông Richardson. Bà đã công bố các bức ảnh tỷ lệ thực và các bức vẽ giả của Haeckel về nhiều loài động vật khác nhau ở cùng giai đoạn phôi thai, từ trái sang phải là phôi của kỳ nhông, người, thỏ, gà và cá. Khi nhìn thấy sự chênh lệch giữa ảnh thật và ảnh giả, mọi người đều không khỏi bàng hoàng [165].

Bà Elizabeth Pennisi đã trích dẫn kết luận của ông Richardson rằng: “Đây là vụ giả mạo nổi tiếng nhất trong giới sinh vật học.”

Bà Pennisi có bằng Cử nhân Sinh học của Đại học Cornell và bằng MFA về Viết Khoa học của Đại học Boston. Ngoài vai trò là cây bút khoa học cho tạp chí Science, bà còn từng được trao Giải thưởng James T. Grady-James H. Stack vì đã giải thích hóa học cho công chúng [166].

Khi ngành sinh học phân tử hiện đại nghiên cứu thâm sâu hơn về gene trong quá trình phát triển phôi, các khoa học gia đã phát hiện có sự khác biệt lớn hơn nữa trong quá trình phát triển phôi sớm và muộn giữa các loài khác nhau [167].

Điều đáng chú ý là, mặc dù “lý thuyết tái diễn phôi” đã được chứng minh là sai lầm, nhưng nó vẫn có ảnh hưởng trong một số lĩnh vực. Ví dụ, những người ủng hộ phá thai cho rằng bào thai bị sát hại chỉ ở giai đoạn của một con cá hoặc một con khỉ, chưa trở thành một con người. Tuy nhiên, kiểu lập luận này đang ngày càng bị nhiều người phản đối [168], lý thuyết sai lầm của Haeckel không thể dùng để ủng hộ thuyết tiến hóa. (Xem “Chương 6” để biết chi tiết)

5.2 “Piltdown Man” – trò lừa bịp khoa học lớn nhất trong lịch sử Anh quốc

Piltdown Man là một hóa thạch được phát hiện trong khoảng thời gian từ năm 1908 đến 1915 ở Anh, và được công bố là “mắt xích còn thiếu.” Sau 40 năm, các khoa học gia đã xác định Piltdown Man là đồ giả được làm từ sự chắp vá của đười ươi và bộ xương người hiện đại, đại bộ phận đã được nhuộm để làm cho nó trông như thể đã thực sự trải qua hàng trăm nghìn năm tuổi.

Dựa trên cuộc phỏng vấn với Giáo sư Chris Stringer khi đó đang làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London, Anh (Natural History Museum, NHM), vào ngày 17/12/2012, BBC đã đăng một bản tin với tiêu đề “Piltdown Man: Kẻ chơi khăm vẫn bị truy đuổi” (Piltdown Man: A hoaxer still pursued).

Trong bản tin có một câu như thế này: “Không nghi ngờ gì nữa, đó là một cú sốc. Vụ bê bối về Piltdown Man được cho là vụ gian lận khoa học lớn nhất từng xảy ra ở Anh.” (It was a shocker, no doubt about it. The Piltdown Man scandal is arguably the greatest scientific fraud ever perpetrated in the UK.) [169]

5.3 “Nebraska Man” hóa ra là heo

Vào năm 1917, một chiếc răng đã được tìm thấy ở gò đất phía Tây của hạt Sioux, Nebraska, Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, Gs.Ts Henry Fairfield Osborn (1857-1935), người quản lý Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ kiêm nhà cổ sinh vật học, đã hết sức ca ngợi khám phá này. Đến năm 1922, ông tuyên bố rằng chiếc răng đó là của Nebraska Man, cho đó là bằng chứng về sự tiến hóa của loài người, và liệt vào danh sách tin tức khoa học quan trọng [171].

Tuy nhiên sau đó, Nebraska Man đã được xác nhận là một loài heo đã tuyệt chủng.

Trong một bức thư vào ngày 02/08/1885, bác sĩ phẫu thuật, học giả và nhà thực vật học người Mỹ George Edward Post (1838-1909) đã ghi lại một đoạn trò chuyện của mình với Tiến sĩ Robert Etheridge (1819-1903), chuyên gia hóa thạch kiêm nhà địa chất của Bảo tàng Anh: “Tôi rất muốn biết một khoa học gia hàng đầu – có lẽ là người có cơ hội lớn nhất trên thế giới để khái quát hóa – sẽ nghĩ gì về thuyết tiến hóa của Darwin.” “Ông ấy quay sang tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi với cái nhìn rõ ràng, trung thực và trả lời rằng: ‘Không có một chút bằng chứng nào về sự biến đổi của các loài trong bảo tàng vĩ đại này. Chín trong số mười tuyên bố của các nhà tiến hóa là hoàn toàn vô nghĩa, không dựa trên cơ sở quan sát và hoàn toàn không được hỗ trợ bởi các sự kiện có thực. Người ta sử dụng một lý thuyết và sau đó cố gắng hết sức để chắp ghép lại cái gọi là ‘sự thật’ để chứng minh cho nó … không có thứ gọi là người hóa thạch. Nếu anh không làm theo họ, mọi người sẽ xem anh là kẻ ngốc. Nhưng bảo tàng này có đầy đủ bằng chứng chứng minh rằng quan điểm của họ hoàn toàn sai.’” (He turned to me with a clear, honest look into my eyes, and replied: “In all this great Museum there is not a particle of evidence of transmutation of species. Nine-tenths of the talk of Evolutionists is sheer nonsense, not founded on observation, and wholly unsupported by fact. Men adopt a theory and then strain their facts to support it. ……There is no such thing as a fossil man. Men are ready to regard you as a fool if you do not go with them in all their vagaries. But this Museum is full of proofs of the utter falsity of their views.”) [172]

Mặc dù các khoa học gia đã phát hiện giả thuyết tiến hóa là một lý thuyết đầy lỗ hổng, nhưng tại sao nó vẫn thống trị giới khoa học và lừa dối thế giới trong hơn một trăm năm qua? Đây quả là một câu hỏi khiến người ta phải suy nghĩ.

Trên thực tế, không có gì lạ khi một người đưa ra một giả thuyết sai lầm. Một người phạm sai lầm cũng không có gì quá ghê gớm, chỉ cần những người xung quanh có đầu óc tỉnh táo, có thể kịp thời sửa sai là được.

Điều kỳ lạ là, những người nghe thấy giả thuyết này đã mù quáng chấp nhận nó mà không suy nghĩ thêm, thậm chí còn cố ý bịa đặt thêm một số “bằng chứng” hư giả để ủng hộ cho giả thuyết vốn không thể đứng vững này. Điều này khiến một nhóm người phạm sai lầm theo, và làm cho sự dối trá càng lan rộng.

Vị Hoàng đế trong câu chuyện “Bộ quần áo mới của Hoàng đế” không mặc quần áo, đó không phải là tình huống tồi tệ nhất, nhưng các đại thần xung quanh và những người đứng xem đều khen ngợi bộ quần áo mới vốn không tồn tại trên người vị Hoàng đế. Đây mới là điều khiến người ta phải suy nghĩ nhiều nhất.

(Chương 1 của loạt bài “Nhìn thấu thuyết tiến hóa” sắp xếp các lỗi logic của giả thuyết tiến hóa, dữ liệu thực nghiệm và sự thật khoa học chất vấn giả thuyết tiến hóa. Chương 2 phá bỏ những suy nghĩ sai lầm kinh điển của giả thuyết tiến hóa. Chương 3 sẽ tiếp tục giải thích các kết quả nghiên cứu sinh học phân tử hiện đại, đặt câu hỏi đối với giả thuyết tiến hóa.)

✍️ Mục lục: Nhìn thấu Thuyết Tiến Hóa  👉  Xem tiếp


Tài liệu tham khảo:

  1. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
  2. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
  3. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
  4. Phillip E. Johnson. Darwin On Trial. Used with permission of Phillip E. Johnson and Regnery Gateway Publishing Co. Electronically Enhanced Text (c) Copyright 1993 World Library, Inc. Copyright 1991.http://maxddl.org/Creation/Darwin%20On%20Trial.pdf
  5. Paul A. Nelson. News and Commentary. Origins & Design 17:1. Colin Patterson Revisits His Famous Question about Evolution http://www.arn.org/docs/odesign/od171/colpat171.htm?fbclid=IwAR0jfWBP88HUDXwOJUrxu4hbTjO3hTzQPrcUYMjD-s3gm5lb007MCyl24kc
  6. Colin Patterson, personal communication. Luther Sunderland, Darwin’s Enigma: Fossils and Other Problems, 4th edition, 1988, 88-90.
  7. Groves, C.P. Wilson, D.E. & Reeder, D.M.. Mammal Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference (3rd ed.). Baltimore, Maryland: Johns Hopkins University Press. 2005. ISBN 978-0-8018-8221-0. LCCN 2005001870. OCLC 62265494. OL 3392515M. NLC 001238428.http://www.departments.bucknell.edu/biology/resources/msw3/browse.asp?id=12100795
  8. Linda J. Lowenstine, Rita McManamon, Karen A. Terio. Editor(s): Karen A. Terio, Denise McAloose, Judy St. Leger, Pathology of Wildlife and Zoo Animals. Academic Press, 2018, Pages 375-412, Chapter 15 – Apes. ISBN 9780128053065, https://doi.org/10.1016/B978-0-12-805306-5.00015-8.
  9. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012https://sci-hub.st/10.1097/00000478-197706000-00012
  10. Walker, J., Clinnick, D., & White, M. (2021). We Are Not Alone: William King and the Naming of the Neanderthals. American Anthropologist, 123(4), 805-818.https://doi.org/10.1111/aman.13654
  11. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
  12. Krings, M., Stone, A., Schmitz, R. W., Krainitzki, H., Stoneking, M., & Pääbo, S. (1997). Neandertal DNA sequences and the origin of modern humans. Cell, 90(1), 19–30.https://www.cell.com/cell/fulltext/S0092-8674(00)80310-4?_returnURL=https%3A%2F%2Flinkinghub.elsevier.com%2Fretrieve%2Fpii%2FS0092867400803104%3Fshowall%3Dtrue
  13. Krings, M., Geisert, H., Schmitz, R. W., Krainitzki, H., & Pääbo, S. (1999). DNA sequence of the mitochondrial hypervariable region II from the neandertal type specimen. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 96(10), 5581–5585.https://doi.org/10.1073/pnas.96.10.5581
  14. Benjamin Vernot Joshua M. Akey ,Resurrecting Surviving Neandertal Lineages from Modern Human Genomes.Science 343,1017-1021(2014).DOI:10.1126/science.1245938; https://sci-hub.st/10.1126/science.1245938
  15. Prüfer, K., Racimo, F., Patterson, N. et al. The complete genome sequence of a Neanderthal from the Altai Mountains. Nature 505, 43–49 (2014).https://doi.org/10.1038/nature12886https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1038/nature12886
  16. Stern, J. T., Jr, & Susman, R. L. (1983). The locomotor anatomy of Australopithecus afarensis. American journal of physical anthropology, 60(3), 279–317.https://doi.org/10.1002/ajpa.1330600302https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1002/ajpa.1330600302
  17. Sandra Blakeslee. May 3, 1983. The New York Times. DID LUCY ACTUALLY STAND ON HER OWN TWO FEET?https://www.nytimes.com/1983/05/03/science/did-lucy-actually-stand-on-her-own-two-feet.html
  18. Oxnard, C.E. Fossils, Teeth, and Sex: New Perspectives on Human Evolution, ISBN: 9780295963891. https://books.google.ch/books?id=8fdoQgAACAAJ. 1987, University of Washington Press. https://archive.org/details/fossilsteethsexn1987oxna/page/n9/mode/2up?q=australopithecines. Commented by David A. Plaisted. Problems with Lucy and Skull 1470 http://www.cs.unc.edu/~plaisted/ce/lucy.html
  19. David A. Plaisted. Problems with Lucy and Skull 1470. http://www.cs.unc.edu/~plaisted/ce/lucy.html. Accessed on June 2 2023.
  20. Green, D. J., & Alemseged, Z. (2012). Australopithecus afarensis scapular ontogeny, function, and the role of climbing in human evolution. Science (New York, N.Y.), 338(6106), 514–517.https://doi.org/10.1126/science.1227123
  21. Java Man. (2023, February 9). New World Encyclopedia, Retrieved 23:52, June 3, 2023 from https://www.newworldencyclopedia.org/p/index.php?title=Java_Man&oldid=1099870
  22. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
  23. Alonso, P. D., Milner, A. C., Ketcham, R. A., Cookson, M. J., & Rowe, T. B. (2004). The avian nature of the brain and inner ear of Archaeopteryx. Nature, 430(7000), 666–669.https://doi.org/10.1038/nature02706https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1038/nature02706.
  24. Feduccia, A., & Tordoff, H. B. (1979). Feathers of Archaeopteryx: Asymmetric Vanes Indicate Aerodynamic Function. Science.https://doi.org/1021https://sci-hub.st/10.1126/science.203.4384.1021
  25. Rowe, T., Ketcham, R. A., Denison, C., Colbert, M., Xu, X., & Currie, P. J. (2001). Forensic palaeontology: The Archaeoraptor forgery. Nature, 410(6828), 539–540.https://doi.org/10.1038/35069145
  26. Phillip E. Johnson. Darwin On Trial. Used with permission of Phillip E. Johnson and Regnery Gateway Publishing Co. Electronically Enhanced Text (c) Copyright 1993 World Library, Inc. Copyright 1991.http://maxddl.org/Creation/Darwin%20On%20Trial.pdf
  27. Cambrian Period. National Geographic.https://www.nationalgeographic.com/science/article/cambrian
  28. Rafferty, John P.. “Chengjiang fossil site”. Encyclopedia Britannica, 12 Nov. 2015, https://www.britannica.com/place/Chengjiang-fossil-site. Accessed 29 June 2023.
  29. Stephen Jay Gould. American paleontologist.https://www.britannica.com/biography/Stephen-Jay-Gould
  30. N Hebert, P. D., Cywinska, A., & Ball, S. L. (2003). Biological identifications through DNA barcodes. Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences, 270(1512), 313-321.https://doi.org/10.1098/rspb.2002.2218
  31. M.Y. Stoeckle, D.S. Thaler. Why should mitochondria define species? Human Evolution. Vol. 33; n. 1-2 (1-30) – 2018. DOI: 10.14673/HE2018121037; https://phe.rockefeller.edu/wp-content/uploads/2018/12/Stoeckle-Thaler-Final-reduced-002.pdf
  32. Marlowe Hood. Sweeping gene survey reveals new facets of evolution. MAY 28, 2018.https://phys.org/news/2018-05-gene-survey-reveals-facets-evolution.html
  33. Rockefeller University. Far from special: Humanity’s tiny DNA differences are ‘average’ in animal kingdom. MAY 21, 2018.https://phys.org/news/2018-05-special-humanity-tiny-dna-differences.html
  34. New Paper in Evolution Journal: Humans and Animals Are (Mostly) the Same Age? Evolution News. June 8, 2018, 2:00 PMhttps://evolutionnews.org/2018/06/humans-and-animals-are-mostly-the-same-age/
  35. Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “catastrophism”. Encyclopedia Britannica, 24 Jun. 2013, https://www.britannica.com/science/catastrophism-geology. Accessed 8 May 2023.
  36. Amy Joi O’Donoghue. Why this 300 million-year-old fossil discovered in Utah has the paleontology world buzzing? Rare creature found in Utah’s Canyonlands National Park. Nov 8, 2021, 8:24pm CEST.https://www.deseret.com/utah/2021/11/8/22770397/rare-fossil-canyonlands-national-park-petrified-forest-paleontology-discovery-reptile-mammal
  37. Polly, Paul David. “Morganucodon”. Encyclopedia Britannica, 12 Oct. 2018, https://www.britannica.com/animal/Morganucodon. Accessed 29 June 2023.
  38. Tattersall, Ian. “Homo sapiens”. Encyclopedia Britannica, 16 May. 2023, https://www.britannica.com/topic/Homo-sapiens. Accessed 4 June 2023.
  39. McNutt, E. J., Hatala, K. G., Miller, C., Adams, J., Casana, J., Deane, A. S., Dominy, N. J., Fabian, K., Fannin, L. D., Gaughan, S., Gill, S. V., Gurtu, J., Gustafson, E., Hill, A. C., Johnson, C., Kallindo, S., Kilham, B., Kilham, P., Kim, E., DeSilva, J. M. (2021). Footprint evidence of early hominin locomotor diversity at Laetoli, Tanzania. Nature, 600(7889), 468-471.https://doi.org/10.1038/s41586-021-04187-7
  1. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf;http://darwin-online.org.uk/content/search-results?freetext=the%20eye%20with%20all%20its%20inimitable%20contrivances
  2. Richard Goldschmidt Quotes.https://www.azquotes.com/author/23446-Richard_Goldschmidt#:~:text=Darwin’s%20theory%20of%20natural%20selection,it%20has%20been%20universally%20accepted.&text=It’s%20impossible%20by%20micro%2Dmutation%20to%20form%20any%20new%20species.&text=The%20facts%20of%20microevolution%20%5Bchange,from%20one%20species%20to%20another%5D
  3. Melinda Danowitz, Aleksandr Vasilyev, Victoria Kortlandt and Nikos Solounias(2015). Fossil evidence and stages of elongation of the Giraffa camelopardalis. Royal society open science https://royalsocietypublishing.org/doi/10.1098/rsos.150393
  4. Simmons, R. E., & Scheepers, L. (1996). Winning by a neck: sexual selection in the evolution of giraffe. The American Naturalist, 148(5), 771–786.https://www.jstor.org/stable/2463405https://sci-hub.st/https://www.jstor.org/stable/2463405
  5. Wang, S. Q., Ye, J., Meng, J., Li, C., Costeur, L., Mennecart, B., Zhang, C., Zhang, J., Aiglstorfer, M., Wang, Y., Wu, Y., Wu, W. Y., & Deng, T. (2022). Sexual selection promotes giraffoid head-neck evolution and ecological adaptation. Science (New York, N.Y.), 376(6597), eabl8316.https://doi.org/10.1126/science.abl8316https://www.science.org/doi/10.1126/science.abl8316
  6. Williams E. M. (2016). Giraffe Stature and Neck Elongation: Vigilance as an Evolutionary Mechanism. Biology, 5(3), 35.https://doi.org/10.3390/biology5030035
  7. Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
  8. Petruzzello, Melissa. “Asa Gray: The Father of American Botany”. Encyclopedia Britannica, 9 Jan. 2017, https://www.britannica.com/story/asa-gray-the-father-of-american-botany. Accessed 30 June 2023.
  9. Correspondence: The correspondence of Charles Darwin. Edited by Frederick Burkhardt et al. 29 vols to date. Cambridge: Cambridge University Press. 1985–.https://www.darwinproject.ac.uk/letter/DCP-LETT-2701.xml. Accessed on June 30, 2023.
  10. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf;http://darwin-online.org.uk/content/search-results?freetext=the%20eye%20with%20all%20its%20inimitable%20contrivances
  11. Ferrara, M., Lugano, G., Sandinha, M. T., Kearns, V. R., Geraghty, B., & Steel, D. H. (2021). Biomechanical properties of retina and choroid: A comprehensive review of techniques and translational relevance. Eye, 35(7), 1818-1832.https://doi.org/10.1038/s41433-021-01437-w
  12. Yang, S., Zhou, J., & Li, D. (2021). Functions and Diseases of the Retinal Pigment Epithelium. Frontiers in Pharmacology, 12.https://doi.org/10.3389/fphar.2021.727870
  13. Purves D, Augustine GJ, Fitzpatrick D, et al., editors. Neuroscience. 2nd edition. Sunderland (MA): Sinauer Associates; 2001. Anatomical Distribution of Rods and Cones. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK10848/
  14. Purves D, Augustine GJ, Fitzpatrick D, et al., editors. Neuroscience. 2nd edition. Sunderland (MA): Sinauer Associates; 2001. Phototransduction. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK10806/
  15. Behe, Michael J., 1952-. (2006). Darwin’s black box : the biochemical challenge to evolution. New York :Free Press, https://www.difa3iat.com/wp-content/uploads/2014/08/Behe_Michael_J_Darwins_Black_Box_The_BiochemicaBookZZ.org_.pdf
  1. Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
  2. Behe, Michael J., 1952-. (2006). Darwin’s black box : the biochemical challenge to evolution. New York :Free Press, P187: https://www.difa3iat.com/wp-content/uploads/2014/08/Behe_Michael_J_Darwins_Black_Box_The_BiochemicaBookZZ.org_.pdf
  3. Carl Wieland and Don Batten. An interview with leading Australian molecular biologist and microbiologist Ian Macreadie.https://creation.com/creation-in-the-research-lab
  4. Meegalla N, Downs BW. Anatomy, Head and Neck, Palatine Tonsil (Faucial Tonsils) [Updated 2022 Jun 11]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2023 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK538296/
  5. Byars SG, Stearns SC, Boomsma JJ. Association of Long-Term Risk of Respiratory, Allergic, and Infectious Diseases With Removal of Adenoids and Tonsils in Childhood. JAMA Otolaryngol Head Neck Surg. 2018;144(7):594–603. doi:10.1001/jamaoto.2018.0614
  6. Wu, M. C., Ma, K. S., Wang, Y. H., & Wei, J. C. (2020). Impact of tonsillectomy on irritable bowel syndrome: A nationwide population-based cohort study. PloS one, 15(9), e0238242.https://doi.org/10.1371/journal.pone.0238242
  7. Janszky, I., Mukamal, K. J., Dalman, C., Hammar, N., & Ahnve, S. (2011). Childhood appendectomy, tonsillectomy, and risk for premature acute myocardial infarction—A nationwide population-based cohort study. European Heart Journal, 32(18), 2290-2296.https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehr137
  8. Arendt J, Aulinas A. Physiology of the Pineal Gland and Melatonin. [Updated 2022 Oct 30]. In: Feingold KR, Anawalt B, Blackman MR, et al., editors. Endotext [Internet]. South Dartmouth (MA): MDText.com, Inc.; 2000-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK550972/
  9. Gheban, B. A., Rosca, I. A., & Crisan, M. (2019). The morphological and functional characteristics of the pineal gland. Medicine and pharmacy reports, 92(3), 226–234.https://doi.org/10.15386/mpr-1235
  10. Hart, M. G., Sarkies, N. J., Santarius, T., & Kirollos, R. W. (2013). Ophthalmological outcome after resection of tumors based on the pineal gland. Journal of neurosurgery, 119(2), 420–426.https://doi.org/10.3171/2013.3.JNS122137
  11. Remien K, Jan A. Anatomy, Head and Neck, Thymus. [Updated 2022 Jul 25]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2023 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK539748/
  12. Csaba G. (2016). The Immunoendocrine Thymus as a Pacemaker of Lifespan. Acta microbiologica et immunologica Hungarica, 63(2), 139–158.https://doi.org/10.1556/030.63.2016.2.1
  13. Gerli, R., Paganelli, R., Cossarizza, A., Muscat, C., Piccolo, G., Barbieri, D., Mariotti, S., Monti, D., Bistoni, O., Raiola, E., Venanzi, F. M., Bertotto, A., & Franceschi, C. (1999). Long-term immunologic effects of thymectomy in patients with myasthenia gravis. The Journal of allergy and clinical immunology, 103(5 Pt 1), 865–872.https://doi.org/10.1016/s0091-6749(99)70431-8
  1. MacRae, Donald Gunn. “Thomas Malthus”. Encyclopedia Britannica, 21 Mar. 2023, https://www.britannica.com/biography/Thomas-Malthus. Accessed 21 May 2023.
  1. Malthus T. An Essay on the Principle of Population As It Affects the Future Improvement of Society, with Remarks on the Speculations of Mr. Goodwin, M. Condorcet and Other Writers (1 ed.). London: J. Johnson in St Paul’s Church-yard. 1798. Retrieved 20 June 2015. via Internet Archive https://ia802601.us.archive.org/7/items/essayonprincipl00malt/essayonprincipl00malt.pdf
  1. Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “symbiosis”. Encyclopedia Britannica, 25 May. 2023, https://www.britannica.com/science/symbiosis. Accessed 19 June 2023.
  1. In this issue. Nat Rev Microbiol 6, 709 (2008).https://doi.org/10.1038/nrmicro2010
  1. Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “ecosystem”. Encyclopedia Britannica, 1 Jun. 2023, https://www.britannica.com/science/ecosystem. Accessed 19 June 2023.
  1. Francisco Carrapiço “The origins of life and the mechanisms of biological evolution”, Proc. SPIE 6309, Instruments, Methods, and Missions for Astrobiology IX, 63090O (14 September 2006); https://doi.org/10.1117/12.681946https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1117/12.681946
  1. Elizabeth Pennisi, The Man Who Bottled Evolution. Science342, 790-793(2013). DOI:10.1126/science.342.6160.790
  1. Tilman, D., Reich, P. & Knops, J. Biodiversity and ecosystem stability in a decade-long grassland experiment. Nature 441, 629–632 (2006).https://doi.org/10.1038/nature04742https://sci-hub.st/https://www.nature.com/articles/nature04742#citeas
  1. Tilman, D., Isbell, F., & Cowles, J. M. (2014). Biodiversity and Ecosystem Functioning.https://doi.org/10.1146/annurev-ecolsys-120213-091917https://sci-hub.st/;https://www.annualreviews.org/doi/full/10.1146/annurev-ecolsys-120213-091917
  1. M. Speidel, “The Parasitic Host: Symbiosis contra Neo-Darwinism”, The Warwick journal of philosophy 9 (Pli 9), 119-138 (2000).https://www.plijournal.com/files/speidel_pli_9.pdf
  1. Aktar, M. W., Sengupta, D., & Chowdhury, A. (2009). Impact of pesticides use in agriculture: Their benefits and hazards. Interdisciplinary Toxicology, 2(1), 1-12.https://doi.org/10.2478/v10102-009-0001-7
  1. Jukes T. H. (1977). Organic food. CRC critical reviews in food science and nutrition, 9(4), 395–418.https://doi.org/10.1080/10408397709527241
  1. Hou, K., Wu, ZX., Chen, XY. et al. Microbiota in health and diseases. Sig Transduct Target Ther 7, 135 (2022).https://doi.org/10.1038/s41392-022-00974-4
  1. Hamad, I., Cardilli, A., Côrte-Real, B. F., Dyczko, A., Vangronsveld, J., & Kleinewietfeld, M. (2022). High-Salt Diet Induces Depletion of Lactic Acid-Producing Bacteria in Murine Gut. Nutrients, 14(6).https://doi.org/10.3390/nu14061171
  1. Dawkins, Richard, 1941-. The Selfish Gene. Oxford ; New York :Oxford University Press, 1989.https://alraziuni.edu.ye/uploads/pdf/The-Selfish-Gene-R.-Dawkins-1976-WW-.pdf;自私的基因_里查德‧道金斯_在线阅读 Ridley, M. In retrospect: The Selfish Gene. Nature 529, 462–463 (2016).https://doi.org/10.1038/529462a
  1. Ridley, M. In retrospect: The Selfish Gene. Nature 529, 462–463 (2016).https://doi.org/10.1038/529462a
  1. SELFISH GENE THEORY OF EVOLUTION CALLED FATALLY FLAWED. New England Complex Systems Institute.https://necsi.edu/selfish-gene-theory-of-evolution-called-fatally-flawed
  1. Yaneer Bar-Yam, Formalizing the gene centered view of evolution, Advances in Complex Systems 2: 277-281 (1999).https://static1.squarespace.com/static/5b68a4e4a2772c2a206180a1/t/5c0ea2e4898583fde71bd31e/1544463076123/genecenteredmft.pdf;https://necsi.edu/selfish-gene-theory-of-evolution-called-fatally-flawed
  1. Ben-Ami Bartal, I., Decety, J., & Mason, P. (2011). Empathy and Pro-Social Behavior in Rats. Science.https://doi.org/1210789https://sci-hub.st/10.1126/science.1210789
  1. Schmelz, M., Grueneisen, S., Kabalak, A., Jost, J., & Tomasello, M. (2017). Chimpanzees return favors at a personal cost. Proceedings of the National Academy of Sciences, 114(28), 7462-7467.https://doi.org/10.1073/pnas.1700351114
  1. 22 Altruism Examples in Animals.https://studiousguy.com/altruism-examples-in-animals/
  1. Haeckel, Ernst. Generelle morphologie der organismen [General Morphology of the Organisms]. Berlin: G. Reimer, 1866; https://www.biodiversitylibrary.org/item/22319#page/16/mode/1up (Accessed Mar 19, 2023)
  1. Richardson, M. K., Hanken, J., Gooneratne, M. L., Pieau, C., Raynaud, A., Selwood, L., & Wright, G. M. (1997). There is no highly conserved embryonic stage in the vertebrates: implications for current theories of evolution and development. Anatomy and embryology, 196(2), 91–106.https://doi.org/10.1007/s004290050082https://sci-hub.st/https://link.springer.com/article/10.1007/s004290050082
  1. Pennisi E. (1997). Haeckel’s embryos: fraud rediscovered. Science (New York, N.Y.), 277(5331), 1435.https://doi.org/10.1126/science.277.5331.1435ahttps://www.dropbox.com/s/9iyt09rkgg4ap6b/Haeckel%27s%20Embryos-%20Fraud%20Rediscovered.pdf?dl=0
  1. Elizabeth Pennisi. Science.https://www.science.org/content/author/elizabeth-pennisi
  1. Irie, N., & Kuratani, S. (2011). Comparative transcriptome analysis reveals vertebrate phylotypic period during organogenesis. Nature Communications, 2(1), 1-8.https://doi.org/10.1038/ncomms1248
  1. Savulescu J. Abortion, embryo destruction and the future of value argumentJ ournal of Medical Ethics 2002;28:133-135.https://jme.bmj.com/content/28/3/133
  1. Jonathan Amos. Science correspondent, BBC News. Piltdown Man: A hoaxer still pursued. 17 December 2012.Piltdown Man: A hoaxer still pursued – BBC News
  1. OSBORN, H. F. Hesperopithecus, the Anthropoid Primate of Western Nebraska.https://doi.org/10.1038/110281a0
  1. Bergman G. (2006). The history of hesperopithecus: the human-ape link that turned out to be a pig. Rivista di biologia, 99(2), 287–306.https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/17115373/https://drive.google.com/drive/folders/1FqugIknnerDR9lh3TthD3UxpIWbqrQLn
  1. Glenn Branch. Deputy Director of National Center of Science Education (NCSE). Dr. Etheridge, Fossilologist, https://ncse.ngo/dr-etheridge-fossilologist-part-3

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *