Đường Mây trên Đất Hoa
✍️ Mục lục: Đường Mây trên Đất Hoa
Chương XIII:
Năm Dân Quốc thứ ba mươi chín (1950 – 1951), mặc dầu đã một trăm mười một tuổi, sức khỏe suy kém nhiều, nhưng Hòa thượng Hư Vân vẫn đến chùa Nam Hoa để làm lễ truyền giới, khai kỳ thiền thất dài hạn. Trong số những người tham gia thiền thất lần này, có vài vị được khai ngộ. Sau đó, ngài trở về Vân Môn thâu nhặt những bản văn sao, thảo kinh, để chuẩn bị hiệu đính, biên tập. Đây là việc làm không dễ vì hầu hết các bản văn thảo kinh sao đó đã được ngài viết ra từ những thập niên trước. Tại Vân Môn, ngài tiếp tục hoàn tất công trình trùng tu tự viện và dạy tăng chúng phải giữ gìn giới luật cho tinh nghiêm. Lúc ấy, trên núi, tăng chúng có cả ngàn người, nương tựa học đạo với ngài. Họ tự trồng lúa, rau trái để sinh sống và tu hành đúng theo tinh thần của Tổ Bách Trượng khi xưa.
Mùa xuân năm Dân Quốc thứ bốn mươi (1951 – 1952), như thường lệ, ngài cho tổ chức lễ truyền giới thì một biến cố xảy ra. Ngày hai mươi tháng Hai, hơn một trăm công an, không biết từ đâu kéo đến, bao vây chùa và cấm không ai được ra vào. Đầu tiên, họ nhốt Hòa thượng Hư Vân vào phòng riêng, cho vài người canh chừng. Sau đó, họ bắt chư tăng vào hết trong pháp đường, rồi khởi sự lục soát tất cả đồ đạc trong chùa.
Trên từ mái ngói, dưới xuống sàn chùa, từ các tượng Phật Tổ, đến pháp khí kinh tạng, họ đều lục lọi kỹ lưỡng không bỏ sót chỗ nào. Hơn một trăm công an lục xét suốt hai ngày liền vẫn không tìm được gì mà họ cho là phi pháp. Cuối cùng, họ lấy đi tất cả giấy tờ, biên nhận, chú giải văn sao, pháp ngữ của Hòa thượng Hư Vân. Họ bắt thầy giám viện Minh Không, thầy thức sự Duy Tâm, các thầy Ngộ Huệ, Chân Không, Tánh Cảnh v.v… mang ra tra tấn. Họ tố cáo chư tăng phạm bao điều tội lỗi và nói rằng họ được mật báo là trong chùa có chứa vũ khí, quân dụng, súng đạn, vàng bạc, máy phát điện v.v… Đó là những vật mà họ muốn tìm.
Hai mươi sáu vị tăng bị đánh đập tàn nhẫn, bức bách hỏi cung về việc cất giấu quân cơ, khí giới, vàng bạc nhưng mọi người đều bảo không biết gì về những thứ đó cả. Thầy Diệu Vân bị đánh đến chết. Thầy Ngộ Vân, Thể Trí bị tra khảo dã man, đánh gãy cả hai tay chân. Một số thầy bị đưa đi đâu mất tích. Sau mười ngày lục lọi tìm tòi nhưng chẳng tìm được gì hết, cuối cùng họ dồn mọi sự tức giận đến Hòa thượng Hư Vân.
* * *
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Thầy Diệu Vân, tên tục là Trương, người Hồ Nam, tốt nghiệp đại học, đã từng giữ chức vụ quan trọng trong Bộ Tài chính. Đến năm ba mươi tuổi, ngài vẫn chưa vợ. Năm ba mươi tám, ngài theo Hòa thượng Hư Vân xuất gia, pháp danh Diệu Vân, hiệu Thiệu Môn. Lúc xưa, đối với mạch pháp Vân Môn, vì không biết ai thừa kế, nên Hòa thượng Hư Vân rất buồn. Trong thời gian trùng tu các tự viện ở Vân Môn, Hòa thượng Hư Vân đã dạy được hơn bốn mươi vị tăng để nối mạch pháp này. Ngài đã đặt rất nhiều hy vọng vào thầy Diệu Vân trong việc xiển nhưng, nối tiếp mạch pháp Vân Môn. Thầy Diệu Vân cũng cần mẫn, tu hành khổ hạnh, để không phụ lòng mong mỏi của Hòa thượng Hư Vân. Khi tai biến xảy đến Vân Môn, thầy bị công an đánh đến chết.
* * *
Ngày mồng một tháng Ba, họ bắt Hòa thượng Hư Vân qua một căn phòng khác, rồi đóng kín cửa lại, không cho ăn uống. Trong phòng chỉ đốt một ngọn đèn dầu nhỏ, mờ mờ ảo ảo như địa ngục. Đến ngày thứ ba, mười tên công an có thân hình to lớn đi vào phòng, bức bách tra hỏi Hòa thượng Hư Vân về chỗ cất giấu vàng bạc, tiền tài, vũ khí, quân nhu. Hòa thượng Hư Vân đáp rằng ngài không có cất giấu chi hết. Họ liền tra tấn, đánh đập ngài bằng gậy sắt. Mặc dầu đau đớn nhưng ngài chỉ một lòng niệm Phật.
Họ vừa đánh vừa tra hỏi bằng những lời lẽ tục tằn nhưng bất chấp cây gỗ, gậy sắt bủa xuống thân ngài tới tấp, ngài vẫn nhắm mắt, không nói năng, kêu la, than vãn lời nào. Hôm đó, họ thay phiên nhau đánh ngài bốn lần như thế, rồi mặc ngài nằm đó, họ kéo nhau bỏ đi. Có lẽ họ nghĩ chắc ngài chẳng thể sống được. Tối đến, thị giả vào phòng, đỡ ngài lên giường ngồi thiền. Hôm sau, nghe nói Hòa thượng Hư Vân chưa chết, họ lại kéo nhau vào phòng. Thấy ngài vẫn đang ngồi thiền, họ nổi xung, tức tối, lấy gậy sắt đánh đập ngài một cách tàn nhẫn, rồi kéo ngài xuống đất, lấy giày đinh đá đạp ngài không ngừng. Ngài nằm sóng soài trên đất, mắt tai mũi miệng đều tuôn máu nhưng vẫn một lòng niệm Phật. Họ nghĩ rằng kỳ này chắc ngài phải chết hẳn, nên kéo nhau bỏ đi. Tối đến, thị giả vào phòng, đỡ ngài lên giường, ngồi xếp bằng như trước. Cứ thế, trong suốt mấy ngày liền, các tên công an thay phiên nhau đánh đập ngài cho đến ngày thứ mười thì ngài đau đớn quá, không thể ngồi được nữa mà phải nằm xuống. Suốt ngày đêm, ngài không động đậy, thầy thị giả đốt một cọng rơm, để hơ trước mũi, nhưng không thấy hơi, nên nghĩ rằng ngài đã viên tịch. Tuy nhiên, thân mình ngài vẫn còn ấm, sắc mặt vẫn tươi tỉnh.
Hai thị giả là Pháp Vân và Khoan Thống thay phiên nhau túc trực bên ngài. Đến ngày thứ mười một, ngài mở miệng nói đôi lời. Thị giả đỡ ngài ngồi dậy và thuật lại cho ngài biết rằng ngài đã nhập định bao nhiêu ngày rồi. Hòa thượng Hư Vân nói: “Thầy tưởng những tai biến này chỉ mới xảy ra chừng vài phút thôi và thầy nghiệm biết phần số mình sắp hết rồi”. Sau đó, ngài bảo thị giả lấy giấy viết ra biên chép lại những việc xảy ra trong lúc ngài nhập thâm định, và căn dặn họ đừng nói cho ai biết, để phòng sự nghi ngờ, phỉ báng. Ngài đã kể: “Thầy vừa mộng thấy mình đến nội viện cung trời Đâu Suất. Nơi đó rất trang nghiêm kỳ diệu, trên thế gian này không có nơi nào giống như thế. Thầy thấy Bồ Tát Di Lặc đang ngồi trên tòa cao thuyết pháp. Trong chúng hội có vài mươi vị, đa số đều là pháp hữu thuở xưa của thầy như Hòa thượng Chí Thiện chùa Hải Hội ở Giang Tây, pháp sư Dung Cảnh ở núi Thiên Thai, ngài Hằng Chí ở Kỳ Sơn, Hòa thượng Bảo Ngộ ở cung Bá Tuế, Hòa thượng Thánh Tâm ở núi Bảo Hoa, luật sư Độc Thể, Hòa thượng Quán Tâm ở Kim Sơn, tôn giả Tử Bách v.v… Thầy cung kính chắp tay chào và được chư vị chỉ tay ra hiệu bảo ngồi bên phía đông, nơi có một chỗ trống. Tôn giả A Nan làm duy na 1, bèn đến ngồi kế cận thầy.
Đại chúng cùng nghe Bồ Tát Di Lặc thuyết Duy Thức Định 2. Đang giảng, đột nhiên ngài Di Lặc dừng lại, chỉ tay về hướng thầy và nói:
1. Duy na: tên gọi vị sư lo việc nghi lễ phép tắc trong chùa chiền.
2. Duy Thức tông: là một trong hai trường phái chính của Phật giáo Đại thừa (trường phái kia là Trung Quán tông). Quan điểm trung tâm của trường phái này là tất cả mọi hiện tượng con người cảm nhận được đều là “duy thức”, tức đều là cảm nhận của thức.
‘Con hãy trở về đi!’.
Thầy đáp: ‘Đệ tử nghiệp chướng nặng nề. Không dám trở về’.
Ngài Di Lặc bảo: ‘Nghiệp duyên của con chưa dứt. Hãy đi về, rồi sau này trở lại’.
Kế đến, ngài Di Lặc nói bài kệ:
‘Thức cùng tri khác ra sao?
Sóng cùng nước đồng nhau
Chớ phân biệt bình bồn
Chất vàng không phân chia
Lượng tánh ba nhân ba
Một sợi gai nhỏ, một sừng ốc tí ti
Nghi thành ảnh tượng
Tánh bệnh hết khi tư hoặc dứt,
Như thân phàm phu trong nhà ảo mộng
Huyễn không chấp trước
Biết huyễn liền rời xa
Rời huyễn tức giác
Đại giác viên minh
Kính soi muôn vật
Phàm Thánh không hai
An nghiệp lành xấu
Bi nguyện độ sinh
Làm trong cảnh mộng
Đương đầu nghiệp lực trong bao kiếp
Nên tỉnh giác việc xảy ra
Thuyền từ bơi trong biển khổ
Chớ sinh tâm thối thất
Sen nở từ bùn lầy
Có Phật Đà ngồi trong đó…’
Còn rất nhiều câu kệ, nhưng thầy quên rồi. Ngài còn dặn bảo thầy vài điều mà nay không tiện nói ra”.
* * *
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Khi xưa, Tổ Hám Sơn, trong lúc thọ cực hình, cũng nhập định như thế. Đối với người chưa chứng ngộ, không thể thấy và thuật lại được những cảnh giới cao siêu như thế được.
* * *
Qua ngày sau, nhóm công an thấy hạnh nhẫn nhục kỳ đặc của Hòa thượng Hư Vân, nên đâm ra khiếp sợ. Tên trùm công an bèn hỏi một vị tăng: “Tại sao ông thầy già kia bị đánh nhừ tử như thế mà không chết?”.
Vị tăng đáp: “Lão Hòa thượng vì chúng sanh chịu khổ, lại vì muốn tiêu trừ tai nạn cho chư vị, nên tuy bị đánh đập tàn nhẫn mà không chết. Đợi sau này rồi chư vị sẽ hiểu”. Kể từ đó, họ không còn dám tra tấn đánh đập ngài nữa.
Vì đã lỡ gây ra việc hung bạo này, họ sợ nếu tin này lọt ra ngoài thì chư Phật tử trong và ngoài nước sẽ phẫn nộ căm tức, có thể xảy ra các hậu quả bất lợi nên họ bèn cho phong tỏa chùa, kiểm soát mọi sự gắt gao. Đối với chư tăng, họ cấm không cho ai nói chuyện với nhau, hay ra khỏi chùa, ngay cả việc ăn uống cũng bị chúng kiểm soát, hạn chế. Cứ thế, việc phong tỏa này kéo dài hơn cả tháng.
Vì bị đánh đập tàn nhẫn, Hòa thượng Hư Vân nhuốm bệnh nặng, mỗi ngày một trầm trọng, mắt ngài không thể nhìn và tai cũng không thể nghe rõ được nữa. Chư đệ tử sợ ngài có thể viên tịch bất cứ lúc nào nên họ thỉnh cầu ngài lược thuật lại cuộc đời tu hành của ngài cho chúng tăng ghi chép lại.
Bản thảo phần “Biên niên Tự thuật” bắt đầu từ đây.
Tuy bị phong tỏa nghiêm ngặt, nhưng đến đầu tháng Tư năm đó thì biến cố Vân Môn cũng lọt ra ngoài, đầu tiên do chư tăng chùa Đại Giác tỉnh Chiết Giang thông báo cho tăng chúng ở Triều Châu biết. Chư hòa thượng, các đệ tử xuất gia và tại gia, cũng như huynh đệ đồng môn của ngài, trong nước cũng như ngoài nước, đều cùng nhau tìm cách giải nạn cho ngài. Các chư tăng trong nước đánh điện về Bắc Kinh, yêu cầu chính phủ điều tra sự vụ kỹ càng. Các Phật tử ở ngoại quốc viết thỉnh nguyện thư cho chính quyền xứ họ, yêu cầu can thiệp. Nghe tin chính quyền điều tra, bọn công an dã man kia bèn nới lỏng vòng kiềm chế sau khi vơ vét một mẻ cuối cùng là lấy đi tất cả đồ vật, lương thực, cũng như y phục của chư tăng.
Hòa thượng Hư Vân bị trọng thương, không thể ăn cháo được, mà chỉ uống nước thôi. Khi nghe tin lương thực trong chùa đều bị lấy đi hết, ngài than với đại chúng: “Lão già này nghiệp nặng, làm liên lụy đến chư vị. Nay việc đã đến nước này, chư vị hãy phân tán đi phương khác, tìm nơi lánh nạn để tu hành”. Tuy nhiên, tăng chúng nhất định không chịu nên ngài đành bảo chư tăng ra sau núi đốn củi, mang ra chợ, cách chùa hơn hai mươi dặm, bán lấy tiền mua gạo ăn. Chư tăng y theo lời dạy của ngài, bán củi mua gạo. Từ đó, họ mới có đủ sức khỏe để đọc kinh, tọa thiền.
Đầu tháng Năm, trước áp lực trong cũng như ngoài nước, chính quyền Bắc Kinh phái một viên chức cao cấp cùng các nhân viên đến huyện Khổng Nguyên để điều tra sự vụ. Họ đến Vân Môn, dẫn theo các chuyên viên kỹ thuật, đem máy chụp ảnh, máy ghi âm, để điều tra sự việc tại chỗ. Đầu tiên, họ đến thăm hỏi Hòa thượng Hư Vân, lúc ấy đang nằm trên giường dưỡng bệnh. Khi thấy các viên chức chính quyền đến, ngài im lặng không nói lời nào. Khi họ hỏi rằng ngài có bị ngược đãi, đồ vật trong chùa có bị mất mát gì không thì ngài cũng không đáp. Sau khi họ năn nỉ lắm, Hòa thượng Hư Vân mới nói rằng họ hãy tự điều tra sự việc thiết thực để báo cáo lên chính quyền Bắc Kinh. Các viên chức bèn nói vài lời an ủi ngài, rồi ra lệnh cho chính quyền địa phương thả các vị tăng đang bị nhốt trong tù ra. Vài hôm sau, họ đem mấy tên công an đã đánh đập ngài đến để cho ngài nhận diện nhưng ngài từ chối không chịu khai báo gì hết. Ngài cũng từ chối không ký tên vào bản cáo trạng, nên sau cùng phái đoàn trung ương chỉ lập hồ sơ lấy lệ, nói rằng chỉ có một vài hiểu lầm nhỏ, không đáng kể mà thôi. Thế là biến cố Vân Môn xảy ra từ ngày hai mươi bốn tháng Hai đến ngày hai mươi ba tháng Năm thì chấm dứt.
Trong hai năm liền sau đó, Hòa thượng Hư Vân vì trọng thương nên an dưỡng tại núi. Tăng chúng hơn trăm vị, chặt cây đốn củi, cùng làm đồ thủ công để đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo, sinh sống qua ngày. Dân chúng trong vùng lân cận nghe Vân Môn được giải nạn, kéo đến viếng thăm Hòa thượng Hư Vân rất đông. Chư đệ tử của ngài, trong và ngoài nước, viết thư vấn an và khuyên ngài nên rời khỏi Vân Môn nhưng lúc ấy, không biết vì lý do gì, chính quyền trung ương tại Bắc Kinh gởi điện tín đến Quảng Đông, ra lệnh cho chính quyền địa phương phải bảo hộ núi Vân Môn.
Mùa xuân năm Dân Quốc thứ bốn mươi mốt (1952 – 1953), Hòa thượng Hư Vân được một trăm mười ba tuổi. Lúc đó, bệnh tình của ngài thuyên giảm đôi chút nên ngài lại bắt đầu hướng dẫn tăng chúng tu tập thiền đạo. Chính phủ bốn lần gởi điện tín mời ngài lên Bắc Kinh bàn chuyện nhưng ngài lấy cớ còn bệnh nên không đi được. Sau cùng, chính quyền cử một phái đoàn đến tận Vân Môn “hộ tống” ngài đi, tăng chúng khuyên ngài nên hoãn lại, nhưng ngài đáp: “Nay đã đến lúc ta phải đi. Hiện tại, toàn thể tăng già trong nước, mỗi người ai nấy đều tự thủ thân, thiếu người lão đạo, như bãi cát vụn, nếu không đoàn kết thành một lực lượng cơ cấu vững mạnh thì tai biến sẽ xảy đến khắp mọi nơi chứ không
phải chỉ ở Vân Môn mà thôi. Thầy vì Phật pháp nên phải ra Bắc Kinh”.
Sau đó, ngài giao phó công việc cho các vị tăng lão thành ở lại hộ trì tự viện, rồi chuẩn bị lên đường. Trước khi đi, ngài có viết bài kệ:
“Chứng kiến năm vua bốn đời,
Thời thế đổi thay đột ngột
Nếm đủ chín gian nan, mười tai nạn
Hiểu rõ thế sự vốn vô thường.”
Ngày mồng bốn tháng Tư, ngài cùng chư thị giả Phật Nguyên, Giác Dân, Khoan Độ, Pháp Vân, khởi hành đi Bắc Kinh. Hàng trăm dân chúng trong các làng xã lân cận, tiễn ngài rời khỏi Vân Môn.
* * *
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Nhớ lại ba mươi năm về trước, vào tháng Chạp, sau khi trùng tu xong chùa Nam Hoa, Hòa thượng Hư Vân chống tích trượng qua Vân Môn. Lúc mới đến thì tự viện hoang tàn, tường vách điện đường, mái ngói đều hư nát. Trong ngôi pháp đường, cỏ mọc lên cả vài thước. Trên núi chỉ có một vị tăng, lo phần hương khói cho chư Tổ sư. Sau khi ngài đến trụ trì, bốn chúng khắp nơi đều vân tập 3, cả ngàn tăng ni vây quanh.
Ngài vừa lo trùng tu tự viện, vừa lo nuôi nấng dạy dỗ tăng chúng. Lúc quân Nhật xâm chiếm Trung Hoa, giao thông bị cắt đứt, những biến cố, tai nạn xảy ra dồn dập hơn gấp mười lần thời ngài còn ở tại chùa Nam Hoa. Do tinh thần tự túc, ngài dạy đồ chúng tự nung ngói gạch, làm hồ, cưa gỗ, kiến tạo tự viện, đúc vẽ tượng Phật v.v… Trong mười năm, ngài kiến thiết điện đường hậu liêu, phòng xá, lầu các, tháp thờ, cả thảy hơn một trăm tám mươi cái. Mái ngói điện đường rộng rãi đẹp đẽ, trang nghiêm không thua khi trước. Bàn về mạch phái, tông Vân Môn 4 truyền được mười đời, cho đến triều Thanh đời Quang Hiếu thì ngưng, nên bị thất truyền, không người kế tục. Hòa thượng Hư Vân điều tra hệ phái, tiếp độ tăng nhân, kế thừa mạch pháp Vân Môn, chấn chỉnh tông phong, nối lại mạch Phật pháp.
3. Vân tập: tụ lại đông đảo như mây.
4. Vân Môn: một trong năm phái thiền ở Trung Quốc (Năm cánh hoa thiền hay Ngũ gia), do Thiền sư Vân Môn Văn Yển sáng lập từ năm 930.
* * *
Khi Hòa thượng Hư Vân đến Triều Châu, bốn chúng đệ tử quy y, xa gần đều lần lượt tới thăm ngài, có đến cả hàng ngàn người. Tại chùa Đại Giám, số người đến tham vấn ngài cũng rất đông, chứng minh rằng tín tâm quần chúng Phật tử không vì thời thế biến chuyển, không vì thế cuộc đổi thay, mà thay dạ đổi lòng. Hôm sau, Hòa thượng Hư Vân lên xe lửa Quảng Đông – Hán Khẩu để ra Bắc. Ngày mười một, đến Võ Xương, ngài trú tại chùa Tam Phật.
Vì đi đường xa nên các vết thương cũ bị chấn động, khiến toàn thân ngài đau nhức dữ dội. Cư sĩ Trần Chân Như ân cần chẩn mạch hốt thuốc cho ngài uống. Hòa thượng trụ trì chùa Tam Phật là Đại Hàm cũng tận tâm lo lắng. Lúc bệnh tình thuyên giảm đôi chút, thể theo lời thỉnh cầu của Hòa thượng Đại Hàm, Hòa thượng Hư Vân chủ trì pháp hội Quán Âm thất trong bảy ngày. Mặc dầu lúc đó tình thế bất lợi, chính quyền cho người theo dõi, kiểm soát nhưng số người đến xin quy y cũng có đến hơn hai ngàn. Làm Phật sự xong, ngài tiếp tục đi ra Bắc, dầu thân vẫn còn bệnh nặng. Trước khi khởi hành, đại chúng tại chùa Tam Phật thỉnh ngài cùng chụp ảnh lưu niệm. Lúc ấy, ngài có làm bài kệ:
“Gió nghiệp thổi đến Võ Xương
Bệnh già làm lụy đại chúng,
Ba tháng trụ chùa Tam Phật
Một tràng tai nạn, một tràng tủi hổ kinh hoàng,
Vô tâm đi lên đỉnh thế giới,
Có nguyện đồng lên trường tuyển Phật.
Nhớ lại Ngọc Tuyền Quan Trạng Sam.
Nghe một lời, ngộ chân thường.”
Lúc đến Bắc Kinh, chư trưởng lão, thiện nam tín nữ đến trạm xe lửa nghinh tiếp ngài rất đông. Họ thỉnh ngài đến chùa Quảng Hóa nghỉ ngơi, nhưng vì có rất nhiều người đến tham bái, nên ngài phải rời qua chùa Quảng Tế để an dưỡng sức khỏe. Sau khi đến Bắc Kinh, ngài gặp lại các vị pháp hữu quen thuộc, tất cả đều hết lòng ủng hộ Phật pháp. Lúc đó, Đại sư Viên Anh cùng các cư sĩ như Triệu Nghiệp Sơ, Hi Nhiêu Gia Thố đã thành lập Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc. Hơn một trăm đại biểu toàn quốc định thỉnh Hòa thượng Hư Vân làm hội trưởng, nhưng ngài từ chối, viện lý do vì bệnh. Do đó, họ đồng thỉnh Đại sư Viên Anh làm chánh hội trưởng, cư sĩ Hi Nhiêu Gia Thố và Triệu Nghiệp Sơ làm phó hội trưởng. Ngoài ra, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đức Ban Thiền Lạt Ma, Hòa thượng Hư Vân, và Tra Cán Cát Căn, được đề cử làm hội trưởng danh dự.
Sau khi Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc được thành lập, Hòa thượng Hư Vân gởi thư đến chính phủ trung ương, thỉnh cầu ban bố cương lĩnh cộng đồng, quy định tự do tín ngưỡng cho nhân dân, và yêu cầu chính quyền hãy cấp bách cho thi hành những điều khoản sau đây:
“Thứ nhất, vô luận là vùng nào, xin hãy ngưng ngay việc đập phá, hủy đốt chùa chiền, tượng Phật, kinh điển. Thứ hai, hãy ngưng việc cưỡng bức chư tăng ni phải hoàn tục.
Thứ ba, tài sản tự viện, sau khi thuộc về công hữu, xin hãy cấp cho tăng ni đủ đất đai để tự túc trồng trọt mưu sinh.”
Ngày mười ba tháng Tám, Hòa thượng Hư Vân đại diện toàn thể Phật tử trong nước, nhận ba bảo vật do nước Tích Lan tặng. Vị trưởng đoàn đại biểu Tích Lan là pháp sư Đạt Mã Lạp Tháp Nạp cùng vài mươi người đến Trung Quốc trao tặng ba bảo vật là xá lợi Phật, bộ tạng kinh tiếng Pali khắc trên lá Cụ Diệp5, và cây Bồ Đề cho Giáo hội Phật giáo Trung Quốc. Ngày mồng một tháng Mười, một cuộc tiếp lễ được tổ chức. Đầu tiên, các thầy Thích Cụ Tán, Thích Thắng Tuyền cùng các cư sĩ Triệu Nghiệp Sơ v.v… đến dâng lễ, hương hoa, đón tiếp phái đoàn Tích Lan. Tại chùa Quảng Tế, hơn hai ngàn người đến dự lễ. Chuông trống Bát Nhã nổi lên. Pháp sư Đạt Mã Lạp Tháp Nạp tiến vào chùa và dâng ba bảo vật cho Hòa thượng Hư Vân, người đại diện Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc. Sau đó, pháp sư nói: “Vì tình thân của Phật tử hai nước trong dòng lịch sử bấy lâu nay, nguyện đoàn kết trong ngôi nhà Tam Bảo từ bi trí huệ. Vì hòa bình thế giới, nay xin dâng tặng ba bảo vật này”.
5. Lá Cụ Diệp: chỉ bộ tạng kinh tiếng Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
Trong đại lễ, còn có đại diện Phật giáo của các nước như Việt Nam, Miến Điện, Ấn Độ, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Gia Nã Đại v.v…
Tháng Chín năm đó, chư trưởng lão cùng các đoàn thể Phật giáo thỉnh Hòa thượng Hư Vân trụ trì chùa Quảng Tế nhưng ngài từ chối, viện lý do sức khỏe yếu kém. Qua tháng Mười, các nhân sĩ tại Thượng Hải tổ chức pháp hội cầu nguyện thế giới hòa bình. Đại chúng đồng thỉnh Hòa thượng Hư Vân làm pháp chủ, nên phái cư sĩ Phương Tử Phiên lên Bắc Kinh nghinh đón ngài. Ngày mười một tháng Chạp, lúc ra trạm xe lửa Bắc Kinh – Thượng Hải, có hơn trăm người mang hoa đến cúng dường ngài và đồng niệm Phật. Đến Thượng Hải, Hòa thượng Hư Vân trú tại chùa Ngọc Phật và quyết định cho tổ chức pháp hội trong bốn mươi chín ngày đêm. Ngày hai mươi sáu tháng Mười, kiến lập đàn tràng Thủy Lục, do ngài làm pháp chủ, cùng thỉnh mười đại pháp sư như Viên Anh, Ứng Từ, Tịnh Quyền, Thị Tùng, Diệu Chân, Đại Bi, Như Sơn, Thủ Bồi, Thanh Định, Vi Phảng, làm pháp chủ các đàn tràng chính. Tổng cộng có bảy mươi hai vị đại pháp sư tham gia đàn sám. Đến ngày mười bốn tháng Chạp thì pháp hội hoàn mãn. Trong kỳ đàn tràng này, trừ các pháp chủ nhập tràng, sáng trưa chiều tối, số người đến tham dự đông như nước thủy triều. Phật tử đến từ các vùng lân cận và xa xôi như Hồ Nam, Hồ Bắc v.v… Người thọ giới quy y hơn bốn mươi ngàn người. Tịnh tài thu được trong pháp hội hơn bảy mươi sáu ngàn đồng. Cá nhân ngài được cúng dường hơn ba ngàn đồng, nhưng ngài không nhận. Ngài cùng các đại pháp sư và cư sĩ quyết định dùng tất cả số tiền trên để cúng dường cho các danh sơn tự viện toàn quốc, gồm có bốn núi lớn như núi Phổ Đà ở tỉnh Chiết Giang, núi Nga Mi ở tỉnh Tây Xuyên, núi Cửu Hoa ở tỉnh An Huy, núi Ngũ Đài ở tỉnh Sơn Tây, cùng tám ngôi chùa cổ xưa lớn như chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba, chùa Cao Mân ở Dương Châu, chùa Linh Nhan ở Tô Châu, chùa Cổ Sơn ở Phước Châu, chùa Quán Tông, chùa Thất
Tháp ở Ninh Ba, chùa Địa Tạng ở Phước Châu, cùng hai trăm năm mươi sáu ngôi tự viện lớn nhỏ.
* * *
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Sau đây là sơ lược về pháp hội Thủy Lục ở Thượng Hải, do Hòa thượng Hư Vân làm pháp chủ.
Bài khai thị của Hòa thượng Hư Vân trong kỳ pháp hội Thủy Lục tại Thượng Hải:
“Pháp hội cầu nguyện thế giới hòa bình đã được cử hành vài ngày qua. Thật là một pháp duyên hy hữu. Hôm nay, pháp sư Vi Phảng, Hòa thượng Diệu Chân, cư sĩ Triệu Nghiệp Sơ, Lý Tư Hoạt, Phương Tử Phiên v.v…, đồng thỉnh ta ra thuyết pháp. Hôm nay là ngày đầu tiên khai mở đàn tràng niệm Phật. Đúng ra là phải do Hòa thượng Diệu Chân đến giảng, nhưng ngài lại nhượng thỉnh ta ra đàm luận cùng chư vị. Sẵn dịp này, ta muốn nói về mối quan hệ giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông, để cho những vị mới phát tâm học Phật pháp tiện việc tham khảo.
Chúng ta sống trong thế giới Ta Bà6, tức đang bơi trong biển khổ, vì thế nên không ai lại không muốn thoát khỏi biển khổ này. Nhưng muốn thoát ra được thì chúng ta phải nương theo Phật pháp. Chân đế của Phật pháp, nói nghiêm túc, thì không pháp nào có thể thuyết được, vì chỉ là hình tướng trên lời nói, ngôn ngữ thôi. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu dùng lời mà nói thì không phải là lời chân thật”. Tuy nhiên, vì chúng sanh căn tánh không đồng, nên muốn tiếp dẫn thì phải dùng vô số pháp môn. Phật pháp tại Trung Quốc có phân rõ ra năm tông phái là Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Giáo tông, và Luật tông. Đối với người đã từng nghiên cứu học hỏi tu tập thì đã quá đủ rồi, vì họ biết rằng chân lý Phật pháp vốn không sai biệt. Người mới học Phật pháp lại phát sinh ra nhiều ý kiến, phân rõ tông này phái nọ v.v… rồi khen mình chê người, làm tổn hại giá trị giáo hóa vi diệu của Phật pháp. Phải biết rằng một câu thoại đầu hay một câu niệm Phật chỉ là phương tiện, không phải là cứu cánh. Đối với người chân thật dụng công thì những phương tiện này là không cần thiết. Tại sao? Vì động tịnh vốn nhất như: bóng trăng soi khắp ngàn sông, nơi nơi đều rõ ràng, không bị chướng ngại. Người bị chướng ngại như mây che trời xanh, nước trong bị vẩn đục. Nếu có chướng ngại, tuy trăng sáng mà không hiển bày. Nước tuy trong mà trăng không hiện rõ. Chúng ta, những người tu hành, nếu muốn hiểu rõ lý đạo, phải biết tự tâm như trăng sáng mùa thu, không nên hướng ngoại tìm cầu, mà phải xoay lại tìm ánh sáng trong tâm mình. Một niệm nếu không sinh thì hiểu rõ nơi không chỗ chứng đắc 7. Khi ấy, làm gì lại có danh tướng sai biệt 8?
6 .Ta Bà thế giới (hay cõi Ta Bà, phiên âm tiếng Phạn: sahā): “ta bà” có nghĩa là nhẫn; “cõi Ta Bà”: nhẫn độ, nhẫn giới, tức chỉ thế giới này, cõi đời này, là nơi mà người tu hành phải kham nhẫn đối với mọi khổ não mới có thể tu học.
7. Không chỗ chứng đắc: “chứng đắc” là đắc đạo, là tu đạt một chánh quả nào đó. “Không chỗ chứng đắc” có nghĩa là không trói buộc, không chấp vào chỗ chứng đắc. Tâm không chỗ chứng đắc thì đạt được tự tại, giải thoát. Đó là mục đích của tu hành theo đạo Phật. Nguyên câu này hàm ý là khi không còn thấy có chỗ chứng đắc là giải thoát.
8. Danh tướng sai biệt: danh tướng là danh và sắc (tên gọi và hình dáng), là những gì nhận thức được bằng các giác quan. Danh tướng sai biệt là sự sai biệt biểu hiện ở danh tướng khác nhau do căn tánh, kiến giải khác nhau về bản tánh thật của các sự vật, hiện tượng do mức độ mê chấp khác nhau của mỗi chúng sanh. Đây chính là chướng ngại ngăn con người đến với sự hiểu biết về chân tánh của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự sai biệt trên danh tướng, còn chân tánh của sự vật hiện tượng thì chỉ có một, không sai biệt. Theo đạo Phật, thấu triệt được chân tánh của sự vật, hiện tượng chính là giác ngộ.
Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, vọng tưởng chấp trước, tập khí nặng nề, nên Đức Thế Tôn, trong bốn mươi chín năm trường, thuyết pháp giảng kinh hơn ba trăm hội. Nhưng mục đích quan trọng nhất trong việc thuyết giảng kinh điển hay dạy những pháp môn tu hành của Đức Thế Tôn là không ngoài việc chữa trị các bệnh tật tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, ác kiến của chúng sanh. Nếu chúng ta xa rời tất cả bệnh tật đó là liền thành Phật. Chúng ta và chư Phật, nào có khác biệt chi đâu.
Người xưa nói: “Dùng phương tiện thì có nhiều pháp môn, nhưng khi trở về cội gốc thì đồng nhau không khác”. Lý đạo là thế. Hiện tại, trong Phật pháp, có hai tông phái rất thịnh hành là Thiền tông và Tịnh Độ tông.
Nhưng có một số tăng chúng, coi thường giới luật. Thật không hợp lý đạo. Yếu nghĩa căn bản của Phật pháp là dựa trên ba chữ: Giới, Định, Huệ. Giống như tòa trầm hương có ba chân, nếu thiếu mất một chân thì không thể đứng được. Vì vậy, chúng ta, người học Phật pháp, mỗi người phải đặc biệt chú ý điều này!
Thiền tông do Đức Thế Tôn tại hội Linh Sơn, đưa cành hoa lên dạy đại chúng, chỉ có tôn giả Ma Ha Ca Diếp là mỉm cười chúm chím, còn mọi người đều không hiểu gì. Đó là tâm tâm tương ưng 9, truyền ngoài giáo lý, tức mạch nguồn của Phật pháp.
Đối với câu niệm Phật của pháp môn Tịnh Độ cùng các pháp môn khác, như đọc kinh trì chú v.v…, đều là pháp liễu sinh thoát tử 10. Có người nói Thiền tông là pháp đốn ngộ 11 nhanh chóng, còn tông Tịnh Độ chỉ là pháp tiệm thứ 12, chậm chạp. Vâng, bất quá chỉ là sự sai biệt trên danh tướng. Thực tế thì không sai khác. Lục Tổ Huệ Năng nói: “Pháp không có đốn ngộ hay tiệm thứ, nhưng người thấy đạo thì có nhanh có chậm”. Chúng ta nên biết rằng mỗi pháp môn trong Phật pháp đều có thể tu trì được cả. Chư vị nếu hợp với pháp môn nào thì nên tu theo pháp môn đó, chứ đừng khen mình chê người, sinh khởi vọng tưởng chấp trước. Nhưng việc quan trọng nhất là phải tôn trọng giữ gìn giới luật.
Người xuất gia gần đây, không tự giữ giới luật nghiêm ngặt, lại còn nói rằng giữ gìn giới luật cẩn mật là chấp trước, cùng bao lời cao ngạo. Thật rất nguy hiểm cho Phật pháp!
9. Tương ưng (samyutta): là ứng với hay đúng với nhau, đồng biết đúng như chân lý. Tâm tâm tương ưng: là tâm ứng với tâm Phật, tức trở về bản tâm hoàn toàn thanh tịnh nên thấy biết tất cả các pháp như chúng vốn là. Đó là tâm giác ngộ, là Phật tánh.
10. Liễu sinh thoát tử: là hiểu được lẽ sống, thoát ly được sự chết và sinh về Cực Lạc, tức là giải thoát khỏi sinh diệt.
11 Đốn ngộ: là (giác) ngộ ngay tức thì.
12 Tiệm thứ: là dần dần, từ từ; “tiệm ngộ” là giác ngộ từ từ.
Thiền tông chính là pháp môn tâm địa 13, sau Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền tông được triển chuyển 14, truyền từ Ấn Độ qua Trung Quốc. Đến Đại sư Huệ Năng, là Tổ thứ sáu ở Đông Độ, được trao y bát, lưu truyền chánh pháp, một thời hưng thịnh.
Luật tông có tôn giả Ưu Ba Ly1 5 là vị đứng đầu. Ngài thừa thọ lời chúc lụy 16 của Đức Thế Tôn mà tuyên thuyết lại giới luật cho chúng sanh trong thời Mạt pháp, nương vào đó mà tu hành, lấy giới luật làm thầy chỉ đạo. Sau đến đời tôn giả Ưu Ba Cúc Đa, Tổ thứ tư của Thiền tông, phân giới ra làm năm bộ luật. Nước ta có lão nhân Nam Sơn là luật sư Đạo Tuyên, y theo bộ Đàm Vô Đức, viết sớ sao mà phụng hành, được xưng là Sơ tổ của Luật tông ở Trung Hoa.
13. Pháp môn tâm địa: là pháp môn tu hành để giác ngộ tự tánh, tức chân tánh của tất cả các pháp.
14. Triển chuyển: xoay đổi, biến chuyển.
15. Ưu Ba Ly (Upali): là một trong các vị đại đệ tử của Phật, là người hành trì giới luật rất đầy đủ. Ngài được suy tôn là bậc Trì giới Ðệ nhất.
16. Chúc lụy: “chúc” là phó chúc, giao phó; “lụy”: dặn dò nhiều lần để duy trì mãi mãi. “Chúc lụy” là phó chúc dặn dò sau chót, mà dặn dò nhiều lần.
Lão nhân Bắc Tề ở núi Thiên Thai, xem bộ Trung Quán Luận của ngài Long Thọ, liền phát minh tâm địa. Lão nhân Đỗ Thuận, lấy kinh Hoa Nghiêm làm chủ, kiến lập tông Hiền Thủ.
Ngài Huệ Viễn đề xướng tông Tịnh Độ. Chín Tổ sư kế tục nhau tương truyền. Sau ngài Vĩnh Minh, chư Tổ sư bao thời đại, đều dùng Thiền tông mà hoằng dương tông Tịnh Độ, như tương dung nước với sữa. Tuy tông phái có phân khác, nhưng cốt yếu không ngoài ý nghĩa của cành hoa mà Đức Phật đưa lên. Thật vậy, Thiền tông cùng tông Tịnh Độ xưa nay vốn có mối quan hệ mật thiết. Thế nên, chúng ta phải biết sự uyển chuyển của người xưa trong việc hoằng dương Phật pháp.
Mật tông do tôn giả Bất Không, trí giả Kim Cang v.v… truyền vào Trung Quốc. Đến đời Thiền sư Nhất Hạnh, do công nỗ lực của ngài, Mật tông được phát dương rộng rãi. Tông này cùng các tông phái khác hỗ tương hoằng hóa Phật pháp.
Vì vậy, Phật tử không nên phân biệt, bằng ngược lại thì tự làm tổn thương đạo pháp. Nếu cứ công kích nhau mãi thì thật không hiểu rõ được tâm ý của Phật Tổ. Người xưa thuyết pháp như lấy lá vàng dỗ con nít khóc. Lão nhân Triệu Châu nói: “Chữ Phật ta không muốn nghe. Niệm một chữ Phật, phải súc miệng cả ba lần”. Vì thế, có một số người không hiểu được sự khổ tâm của người xưa, cho rằng niệm Phật chỉ là việc của các ông già bà cả, hoặc nói tham thiền là vọng không như ngoại đạo.
Tổng quát, nếu ta nói đúng như vầy, kẻ nọ có lỗi kia, cứ thế tranh luận mãi, không chịu tu, thì thật là bội bạc bổn hoài 17 của Phật Tổ, khiến cho người ngoài có cơ hội công kích, hủy phá tiền đồ Phật giáo. Kết quả thật rất tai hại.
17. Bổn hoài: “bổn” nghĩa là nguyên là, vốn là, ngay từ đầu; “hoài” là hoài bão, tâm nguyện.
Do đó, Hư Vân ta đặc biệt nêu lên vấn đề này. Hy vọng chư vị lão tham học cùng các bạn mới phát tâm học Phật pháp, đừng nên phạm vào lỗi này. Nếu cứ làm mãi như thế thì chỉ đưa Phật giáo vào con đường cùng. Người học Phật phải nên đọc qua nhiều lần bài ‘Tông Cảnh Lục’ và tập ‘Muôn Thiện Đồng Quy’ của lão nhân Vĩnh Minh. Người niệm Phật phải hiểu rõ chương Bồ Tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông, và cũng phải hiểu rõ Tịnh Độ là xuất phát từ tự tánh 18, xả bỏ vọng tưởng, quay về nguồn chân, chớ hướng ngoại tìm cầu. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ những chân lý này, tùy theo ý thích của người mà bàn về Thiền cũng được, nói về Tịnh Độ cũng hay. Hoặc muốn vãng sinh về cõi Đông phương hay cõi Tây phương cũng tốt. Cho đến nói có, nói không đều đúng cả. Thực sự, mỗi sắc, mỗi hương đều không ngoài sự liễu nghĩa 19 của trung đạo; tự tánh là Di Đà, duy tâm tức Tịnh Độ, xả bỏ liền đến bờ giác. Tại sao có nhiều dây trói buộc chúng ta? Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu dẹp hết tâm phàm thì thật không có sự giải thoát của chư thánh”. Nếu hiểu rõ như thế thì sẽ đoạn trừ được vọng tưởng, kiến chấp, tập khí, tức làm Bồ Tát, làm Phật Tổ. Ngược lại, sẽ mãi làm chúng sanh. Người niệm Phật, cũng đừng có kiến chấp thái quá. Nếu không, sẽ như uống thuốc độc. Hiện tại, chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà Phật để dẹp trừ vọng tưởng chấp trước bao đời. Thế nên, dùng một câu niệm Phật, như cầm chổi, quét sạch vọng tưởng. Niệm mãi không quên, khiến vọng niệm tự tiêu trừ, của tịnh liền hiện, tìm cầu bên ngoài chỉ nhọc sức.”
18. Tự tánh (còn gọi là thật tánh hay Phật tánh): là bản tánh thật của tất cả các pháp. Bản tánh thật của tất cả các pháp chính là tánh Không, tức không có tự tánh.
19. Liễu nghĩa: nghĩa lý được giãi bày đầy đủ, trọn vẹn.
* * *
Hòa thượng Hư Vân giảng “Phải hiểu rõ việc niệm Phật” nhân ngày giỗ thứ mười hai của Tổ Ấn Quang, năm 1952:
“Hôm nay là ngày giỗ kỷ niệm lão pháp sư Ấn Quang vãng sinh về cõi Tây phương lần thứ mười hai. Các vị đều là đệ tử của ngài. Uống nước phải nhớ nguồn, nên chư vị tụ hội tại giảng đường này, làm lễ giỗ truy niệm thầy mình. Trong đạo lý nhà Phật, thầy tức là cha mẹ pháp thân của mình. Kỷ niệm thầy, tức là nhắc lại bổn phận hiếu hạnh của mình đối với cha mẹ pháp thân. So sánh với sự hiếu thảo nhỏ nhặt ở thế gian thì việc này có nhiều ý nghĩa thâm trầm hơn.
Nhớ thuở xưa, lần đầu gặp lão pháp sư Ấn Quang tại núi Phổ Đà vào năm Quang Tự thứ hai mươi. Lúc bấy giờ lão Hòa thượng Hóa Văn thỉnh ngài lên tòa giảng kinh A Di Đà tại chùa Quảng Tế. Giảng xong, ngài ở lại chùa, đọc hết bộ Tam Tạng kinh điển. Qua hơn hai mươi năm, ngài chưa từng rời núi một bước, đóng cửa ẩn tu. Tuy ngài hiểu rõ giáo nghĩa rất thâm sâu, nhưng chỉ lấy một câu A Di Đà Phật làm sự tu trì hằng ngày. Tuyệt đối không cho mình thông hiểu kinh giáo thâm sâu mà coi nhẹ pháp môn niệm Phật. Lời dạy của Phật là thuốc dùng để trị bệnh khổ cho chúng sanh. Pháp môn niệm Phật, được gọi là thuốc A Già Đà, trị hết tất cả bệnh 20. Nhưng, vô luận tu pháp môn nào, cần phải có niềm tin kiên cố, giữ gìn mãi mãi, thực hành ngày một thâm sâu, thì mới mong đạt được lợi ích đầy đủ. Nếu có niềm tin kiên cố thì trì chú, tham thiền, niệm Phật đều thành tựu. Nếu tín căn không thâm sâu, chỉ cậy nhờ chút ít thiện căn, học thức cạn cợt, hoặc nhớ được vài ba danh tướng, công án, đi nói chuyện vô ích, tạp nhạp, bàn việc đúng sai, thì chỉ tăng trưởng
nghiệp chướng và tập khí xấu xa. Bàn về việc sống chết cũng vẫn bị nghiệp thức dẫn dắt. Có thật đáng thương lắm không! Chư vị là đệ tử của pháp sư Ấn Quang. Hôm nay làm giỗ kỷ niệm, thì cũng phải kỷ niệm sự hành trì chân thật của ngài. Ngài là một vị chân tu thực thụ, bước trên đường các bậc cổ đức đã đi. Ngài hiểu rõ thâm ý của chương ‘Bồ Tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông’ và theo đó mà khởi tu, đạt được niệm Phật Tam Muội 21. Từ đó, ngài hoằng dương tông Tịnh Độ, lợi ích chúng sanh, trải qua bao thập niên mà cũng vẫn như một ngày, chưa từng từ nan thối bước, dầu cho bệnh tật ốm đau. Hiện tại, thật hiếm có ai như ngài, chân thật tu hành, không khởi kiến chấp, phân biệt mình người, chỉ nghe một danh hiệu Phật, rồi y theo đó mà tu trì. Sáng niệm Phật, tối niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi, trong hai mươi sáu thời niệm niệm không quên.
Thầm thầm lặng lặng, công phu thuần thục chín muồi, cảnh tịnh Tây phương Cực Lạc hiện trước mặt, được lợi ích vô biên.
20. Thuốc A Già Đà: được xem là thuốc trị muôn bệnh. Trong kinh Đại thừa thường có câu: “Một câu A Di Đà Phật này là thuốc A Già Đà”, hàm ý rằng tín tâm kiên định niệm Phật A Di Đà không dời đổi thì sẽ có thành tựu.
21. Niệm Phật Tam Muội: “Tam Muội” là âm tiếng Hán dịch từ “samadhi”, có nghĩa là thiền định hay chánh định. Niệm Phật Tam Muội là phương tiện và phương pháp tu thông qua niệm Phật để đạt được Định. Đây là phương pháp thiền quán của Phật giáo Đại thừa.
Tự mình quán thấy, quan trọng là tín tâm phải kiên cố. Tín tâm nếu không kiên cố, thì muôn sự không thể thành. Hôm nay tăng, ngày mai giảm. Nghe người nói tham thiền hay thì bỏ ngay công phu niệm Phật, chạy qua tu thiền. Nghe người nói học kinh điển rất tốt, thì lại bỏ thiền, qua học kinh giáo. Học kinh giáo không thành lại chạy đến trì chú, nhưng chẳng hiểu chi hết. Tâm bị chướng ngại vì không thanh tịnh.
Không tự trách mình tín tâm không định, lại cho rằng Phật Tổ dối gạt chúng sanh. Chửi Phật báng pháp, tạo nghiệp vô gián 22. Vì thế, ta khuyên đại chúng, phải nên tin tưởng kiên cố sự lợi ích của pháp môn niệm Phật, học theo hạnh ‘chân thật niệm Phật’ của lão pháp sư Ấn Quang 23, lập chí vững chắc, phát tâm dũng mãnh, lấy việc vãng sinh cõi Tây phương làm việc lớn trong đời.
22. Vô gián: không có chỗ đứt đoạn, liên miên không dứt.
23. Chân thật niệm Phật: là một khái niệm trong pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ tông. Chân thật niệm Phật là niệm trong từng giây phút, không gián đoạn cho đến khi thuần thục, chẳng niệm mà tự niệm, nhằm đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn. Ấn Quang Đại sư (đời nhà Thanh) là người rất chuyên tâm theo pháp môn này.
Tham thiền cùng niệm Phật, đối với người mới phát tâm tu học thì thấy có khác, nhưng đối với người tu hành lâu năm thì chỉ là một mà thôi. Tham thiền đề cử thoại đầu, chặt đứt dòng sanh tử, cũng từ tín tâm kiên cố mà được. Nếu thoại đầu giữ mãi không được, thì tham thiền không thể thành phiến24. Nếu tín tâm kiên cố, thì đến chết cũng phải khán thoại đầu. Uống trà mà không biết đang uống trà. Ăn cơm mà không biết đang ăn cơm. Như thế, công phu mới thuần thục, thoát khỏi căn trần, đại dụng 25 hiện tiền 26, cùng cảnh tịnh của công phu niệm Phật, giống nhau không khác. Đạt đến cảnh giới đó, lý sự viên dung 27, tâm cùng Phật không hai. Phật như như bất động. Chúng sanh cũng như như bất động. Một như như bất động mà không có hai như như bất động, thì sai biệt chỗ nào? Chư vị là những người tu pháp môn niệm Phật. Ta hy vọng tất cả hãy lấy một câu niệm Phật làm chỗ y tựa cho đời mình. Hãy chân thật mà niệm!”
24. Thành phiến: “phiến” có nghĩa là tấm, khối hay mảng. Niệm Phật hay tham thiền thành phiến có nghĩa là nhất tâm niệm Phật hay thiền quán cho đến cùng, với tất cả tinh thần và ý chí, không để tạp niệm hay vọng tưởng xen vào làm gián đoạn. Công phu như thế gọi là công phu thành phiến.
25. Đại dụng: vô cùng hữu dụng. Đại dụng trong kinh Phật chỉ trạng thái của tâm: chánh định, sáng suốt hoàn toàn.
26. Hiện tiền: quả là có thật ngay trong giây phút hiện tại.
27. Lý sự viên dung: ý nói cách tu trọn vẹn trí nguyện và hạnh nguyện, hay còn gọi là “phước tuệ song tu”. “Lý” nghĩa là chánh pháp hay trí tuệ Bát Nhã, tức sự hiểu biết toàn triệt, tu lý là tu theo chánh pháp để đi đến giác ngộ, giải thoát; “sự” là Phật sự, công đức hay hạnh nguyện đem lại lợi ích cho chúng sanh. Nói cách khác, tu trí là điều kiện cần; còn tu hạnh là điều kiện đủ để trở thành người tu hành mà kinh sách gọi là “lý sự viên dung”.
Năm 1953, sau đàn tràng Thủy Lục, Hòa thượng Hư Vân định rời Thượng Hải, nhưng vì đại chúng cùng các nhân sĩ nghĩ rằng những pháp hội thù thắng do bậc cao tăng hướng dẫn khó mà gặp được, nên đồng thỉnh ngài ở lại, tiếp tục cử hành các khóa thiền thất tại chùa Ngọc Phật. Vào dịp này, ngài xiển hưng, chấn chỉnh lại quy chế thiền đường và tổ chức khóa thiền từ ngày mồng chín cho đến ngày mười lăm tháng Chạp thì chấm dứt. Đại chúng vì chưa nếm đủ mùi pháp vị, nên thỉnh ngài cử hành thêm một tuần thiền thất nữa. Do đó, ngài cho tổ chức thêm một thời khóa thứ hai, bắt đầu vào ngày thứ mười sáu cho đến ngày hai mươi ba. Trong hai tuần thiền thất, ngài có ban những bài pháp ngữ, khai thị đại chúng 28. Sau đó, các cơ quan đoàn thể Phật giáo ở Hàng Châu phái cư sĩ Đỗ Vi đến Thượng Hải, thỉnh Hòa thượng Hư Vân qua đó làm Phật sự. Hòa thượng đến trú tại chùa Tịnh Từ, đứng ra làm pháp chủ pháp hội.
Người quy y ngài có hơn vài ngàn người. Hòa thượng Diệu Chân, pháp sư Vô Ngại ở chùa Linh Nham tại Tô Châu, thỉnh ngài đến tổ chức pháp hội. Hòa thượng Hư Vân theo lời mời, đi Tô Châu. Ngài qua châu Thọ Khánh ở Bán Dương, lễ tháp Tổ Nguyên Thiện Kế, xem kinh Hoa Nghiêm được viết bằng máu. Người thọ giới quy y có hơn vài ngàn người.
28. Xem thêm các bài này ở phần ba.
Trên đường đi, ngài qua Hổ Khâu, lễ tháp Tổ Thiệu Long, thấy tháp viện đã bị quan dân thổ hào địa phương xâm chiếm, bia phần mộ đá của Tổ đã bị xóa tên, xung quanh chỉ còn sỏi đá lởm chởm. Khi xưa ngài đã từng ghé qua lễ tháp Tổ nên cảnh tượng vẫn còn hiện rõ trong ký ức.
Tháp Tổ khi xưa trang nghiêm như thế mà nay chỉ còn là một đống gạch vụn, không người thờ cúng, nhang khói nên ngài rất đau lòng. Ngài bèn thương lượng với quan thân sĩ thứ địa phương mua lại mảnh đất này để bảo tồn, trùng tu kiến lập lại tháp Tổ. Ngài thỉnh Hòa thượng Diệu Chân cùng Hòa thượng Sở Quang ở Hổ Khâu đến trông coi việc trùng tu tháp Tổ.
Tháng Tư năm đó, ngài nhận được điện tín từ Bắc Kinh, thỉnh ngài lên kinh. Vào kinh thành, ngài trú tại chùa Quảng Tế. Các đại biểu tăng già khắp nơi đều lần lượt đến yết bái ngài. Lúc đó, chính quyền trung ương đã cho giải tán Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc do các đoàn thể đại biểu Phật giáo thành lập trước đó và thành lập Liên hội Phật giáo Trung Quốc. Họ chỉ định một số tu sĩ của đảng đứng ra lãnh đạo và quyết định nhiều điều quan trọng. Khi những tu sĩ bại hoại này đề nghị phải bãi bỏ những giới luật đạo đức căn bản, như luật Tứ Phần (giới Tỳ kheo), kinh Phạm Võng (giới Bồ Tát), Bách Trượng Thanh Quy v.v…, và đặt Liên hội dưới sự quản trị của chính quyền thì Hòa thượng Hư Vân đã phản đối kịch liệt, ngài quát mắng họ và viết bài văn “Biểu tướng tăng đồ trong đời Mạt pháp”. Đại hội kết thúc, Hòa thượng Hư Vân có ý định muốn rời Bắc Kinh, nhưng chính quyền “khuyên” ngài nên đến Lô Sơn, một vùng núi xa xôi, để “dưỡng bệnh”.
Trên đường đi Lô Sơn, ngài cùng thị giả Giác Dân ghé lại Võ Hán thăm Hòa thượng Nguyên Thành ở chùa Bảo Thông. Hòa thượng Nguyên Thành thỉnh ngài làm pháp chủ thiền thất trong hai tuần liên tiếp. Mặc dầu bị chính quyền ngăn chặn, đe dọa nhưng số người đến xin tham gia tuần lễ thiền thất cũng lên đến con số vài trăm người. Khi đến Lô Sơn, ngài trú tại chùa Đại Lâm. Được ít lâu thì có một người từ núi Vân Cư gần đó đến báo tin: “Trong cuộc Thế chiến thứ hai, quân Nhật thấy núi này hiểm trở, sợ quân du kích địa phương dễ bề hoạt động, nên họ đốt sạch toàn bộ chùa Chân Như. Nay con đi qua núi thấy tượng Phật Tỳ Lô Giá Na nằm trong đám bụi rậm…”. Nghe kể như thế, Hòa thượng Hư Vân rất buồn vì chùa Chân Như ở núi Vân Cư được xây vào đời Đường, là đạo tràng tối thắng29 của chư đại Tổ sư. Các chư Tổ như ngài Đạo Dung, Pháp Ấn, Liễu Nguyên, Viên Ngộ, Khắc Cần, Đại Huệ, Tông Cảo, đều từng nhậm chức trụ trì tại đây. Những vị Tổ sư khác thường qua đó hoằng dương Phật pháp như ngài Triệu Châu, Vân Môn, Cổ Tháp, Đồng Sơn, Viên Thông, Chân Tịnh. Các vị cư sĩ nổi tiếng cũng thường đến đó tham học như Bạch Cư Dị, Bì Nhật Hưu, Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc, Tần Thiếu Du, Lữ Cư Nhân v.v.., nhiều không thể đếm.
Đạo tràng của chư vị Tổ sư trải qua bao đời, trang nghiêm huy hoàng như thế mà nay hoang tàn đến mức thậm tệ và nếu không trùng tu thì sẽ bị chìm trong quên lãng. Hòa thượng Hư Vân bèn phát nguyện sẽ trùng tu lại đạo tràng này. Ngài xin giấy phép của chính quyền địa phương để sửa chữa chùa Chân Như. Vì núi Vân Cư đường sá xa xôi, còn hoang vu cách trở hơn Lô Sơn nhiều, nên chính quyền mừng rỡ yêu cầu Hòa thượng Hư Vân nên đi “dưỡng bệnh” thật xa, ở nơi chốn thật hoang vu, càng xa càng tốt.
29. Tối thắng: tối cao, vượt người, vượt trời.
Mồng năm tháng Bảy, ngài cùng với một vài tăng sĩ vào núi Vân Cư.
Tháng Chín, một số đệ tử nghe ngài đến trú tại đó liền tìm đến. Họ đi bằng thuyền và xe lửa mất hơn nửa tháng mới đến chân núi. Quanh núi, cỏ rậm cao ngất, không có đường lộ cho người ngựa đi, nên họ phải men theo các đường mòn để leo lên núi. Trèo lên núi khoảng hai mươi dặm đến Thạch Môn, nơi đã được ngài cho khai hoang rộng rãi, từ đó còn phải đi một lúc nữa mới vào đến chùa. Đầu tiên, họ thấy tường vách đổ nát, khung cảnh hoang vu tàn rụi. Họ gặp một thiền sinh chỉ chỗ ở của ngài là một am tranh cất sơ sài. Họ cúi mình bước vào thì thấy ngài đang ngồi thiền trên băng ghế dài, dường như nhập định. Ngài mở mắt ra nói:
“Tại sao chư vị khổ nhọc, lên đến tận đây?”. Họ thành thật kể lại lý do, ngài lại nói tiếp: “Lúc mới lên, chỉ có bốn vị tăng, ý ta muốn kết am cỏ làm lều trú ngụ, chứ không muốn thọ nhận thêm đệ tử. Chưa đầy một tháng sau, đã có năm mươi vị lên đây ở. Bên ngoài am tranh, chỉ có vài ngôi nhà đổ nát. Chư vị đã đến đây thì hãy đến đó mà tạm trú trong vài mươi ngày”.
Am tranh của Hòa thượng Hư Vân cách chùa khoảng nửa dặm, nằm về hướng tây bắc. Hòa thượng Hư Vân thích ngồi thiền tĩnh tọa nơi đó, lại có ý muốn trồng trọt rau cải cho tăng chúng trong vùng xung quanh.
Sau tháng Mười, tăng nhân khắp nơi đổ dồn về thêm nhiều. Khẩu phần ăn của mỗi người dần dần giảm xuống còn hai chén cơm một ngày. May mắn thay, có cư sĩ Giản Ngọc Giai ở Thượng Hải cúng dường tiền mua lương thực nên tăng chúng trên núi mới có thể sống tạm qua mùa đông năm đó. Hòa thượng Hư Vân dự định khai khẩn đất hoang, cấy lúa trồng rau, cùng kiến lập, trùng tu lại chùa chiền. Đến mùa xuân, ngài trù liệu sửa sang đại điện để đặt tượng Phật Tỳ Lô Giá Na, do Hoàng thái hậu đời Minh, niên hiệu Vạn Lịch ban chiếu đúc. Vì mái chùa phải lợp bằng thiếc mới có thể chịu đựng được những cơn gió lốc trên đỉnh núi, nên ngài họp đại chúng lại, cùng nhau làm ngói thiếc, đúc hai quả chuông đồng, xây bốn lò nấu cơm cho tăng chúng. Bấy giờ, chư tăng và người tục trên núi có vài trăm vị, mà trong đó lại có rất nhiều thợ nề, thợ gốm, thợ đúc v.v… Các đệ tử trong và ngoài nước liên tiếp gởi thư thăm hỏi và cúng dường tịnh phẩm rất nhiều. Sẵn có người, có đất, có tiền, việc trùng tu tự viện tiến triển thuận lợi, dễ dàng. Hòa thượng phân chia tăng chúng ra làm hai nhóm. Một nhóm lo về công trình thổ mộc, kiến tạo tự viện, một nhóm lo về công việc khai khẩn đất hoang, trồng trọt. Đại chúng đều hăng say thi hành, làm việc. Đến mùa hè, một pháp đường được kiến lập, trên có xây lầu chứa tạng kinh, hai bộ Thích Sa và Tần Già. Nhóm khai khẩn đất hoang, mở rộng khoảng sáu mươi mẫu đất, trồng lúa, trồng rau, nuôi tăng chúng, thể theo quy củ của Tổ Bách Trượng dạy. Mùa thu, lại kiến lập được phòng ốc chư tăng. Trên lầu, dưới lầu, có hơn hai mươi phòng, khiến tăng chúng an ổn tu hành. Lại xây cất nhà bếp, nhà cầu, nhà xay gạo v.v… Hòa thượng Hư Vân vẫn ở tại am tranh xưa.
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Hòa thượng trụ trì chùa Nam Hoa là Bổn Hoán cùng sáu Tỳ kheo ni ở Thái Bình Liên Xã lên núi thăm ngài. Họ thấy có một quả chuông đồng bể nằm ở bụi cỏ gần đó nên hỏi, và ngài trả lời: “Đây là vật cổ của núi, tên là ‘Chuông tự ngân vang’. Trải qua bao đời, mỗi lần có chư Tổ sư đến núi thì chuông tự nhiên ngân vang tiếng. Lúc quân Nhật chiếm đóng, đốt rụi núi, thì lầu chuông bị cháy, chuông rớt xuống đất bị nứt bể, nay tự nhiên nối ráp lại”. Chúng tăng thấy lạ bèn kiểm xem thì thấy có những vết nứt chạy dài từ dưới lên tự nhiên lần hồi đắp vá lại. Ngài nói thêm:
“Đợi chuông tự vá đắp xong thì treo lên lầu chuông như xưa”. Ngài dẫn họ đi xem nơi chư tăng trồng lúa, rau quả, các cây sam lớn, cùng cây ngân hạnh. Ngài chỉ tay bảo họ: “Đây là loại trái bách quả, ruột trống không”. Hòa thượng Bổn Hoán ở lại đó mười ngày. Hòa thượng Hư Vân chặt vài cây trúc làm thiền bản, và tự thân khắc kệ trên đó, để tặng cho chư đệ tử ở Hồng Kông và Quảng Đông. Tháng Mười một, am tranh của ngài bị cháy. Tăng chúng thỉnh ngài vào trú trong phòng xá mới xây, nhưng ngài đáp: “Thầy thích ở chỗ tao nhã cổ kính này”. Ngài lấy rơm rạ tự lợp thành am thất trú ẩn. Trong năm, có điện tín từ Bắc Kinh gởi đến, thỉnh ngài ra Bắc nhưng ngài cáo bệnh, không đi. Cuối năm đó, ngài khai mở thiền thất cho các đệ tử trên núi.
* * *
Mùa xuân năm Dân Quốc thứ bốn mươi bốn (1955 – 1956), Hòa thượng Hư Vân được một trăm mười sáu tuổi. Việc kiến tạo chùa mỗi ngày một tăng gia 30, nhà bếp, nhà ăn, phòng xá, liêu đường, thiền đường v.v…, từ từ xây xong. Mùa hạ năm đó, Liên hội Phật giáo tại Bắc Kinh khai mở đại hội khoáng đại31 và muốn mời ngài ra làm việc nhưng ngài từ chối vì bận công việc xây chùa. Qua mùa thu, một số đệ tử của ngài từ khắp nơi đến núi, trong đó có những vị chưa thọ giới cụ túc, thỉnh cầu ngài truyền giới cho. Lúc bấy giờ, ngài nhận thấy chưa đủ phương tiện để truyền giới, nhưng muốn cho người phát tâm tu hành được thành tựu, nên ngài quyết định chỉ truyền giới cho những vị hiện đang lưu trú trên núi chứ không thông báo đàn truyền giới ra bên ngoài. Ngài xin giấy phép của Liên hội Phật giáo tại Bắc Kinh để làm lễ truyền giới. Tin này đồn ra ngoài, tăng chúng tại các nơi nghe tin liền kéo nhau đến Vân Cư cầu giới. Mới đầu có khoảng hơn một trăm vị, rồi từ từ tăng lên hơn ba trăm vị, cộng chung với chư tăng trên núi cả thảy hơn năm trăm vị, nên việc tổ chức trong hoàn cảnh đó thật rất khó khăn.
30. Tăng gia: tăng thêm.
31 Đại hội khoáng đại: đại hội thường niên của Phật giáo.
Lúc đó, tình hình tôn giáo tại Trung Hoa nói chung đang có nhiều chuyện rắc rối. Để cản trở việc phát tâm tu hành của những người cầu thọ giới, chính quyền tỉnh Cam Túc đánh điện cho chính quyền tỉnh Giang Tây (đang quản lý núi Vân Cư), phao vu rằng có những kẻ gian manh giả mặc áo tăng bào, đến Vân Cư cầu xin thọ giới để âm mưu chi đó. Cơ quan công an địa phương được chỉ thị, bèn cho người bao vây quanh chùa. Hòa thượng Hư Vân nghe thế, phòng ngừa rất thận trọng, nhưng lúc bấy giờ, những người cầu giới đã vào núi hết, nếu từ chối không cho thọ giới thì trái với lời Phật dạy, còn nếu truyền giới cho tất cả tăng chúng thì không thể sống an ổn trong tình thế hiện tại. Tuy nhiên, Hòa thượng Hư Vân y theo kinh Phạm Võng phẩm “Phương tiện Tự Tạm Thọ giới” để dạy người cầu giới, thuyết rõ mười giới, cụ túc giới, ba loại giới pháp. Sau đó, ngài khuyên tăng chúng nên trở về quê quán, y chiếu giới kỳ, tạm tự thọ giới. Truyền giới xong, ngài ban phát giới điệp, chỉ giữ lại hơn một trăm vị, y theo pháp mà nhập đàn truyền giới, rồi ngài tuyên bố chấm dứt. Vì duyên pháp bị chướng ngại, nên lúc đó nhiều người ra về bị công an xét hỏi, làm khó dễ không được yên. Sau lễ truyền giới, Hòa thượng Hư Vân liền kết một tuần thiền thất.
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Trong buổi giảng dạy, Hòa thượng Hư Vân đã khai thị giảng kinh Hoa Nghiêm cho chúng tăng như sau:
“Bậc thiện tri thức nói lời đúng pháp, đúng như lời nói mà làm. Thế nào gọi là nói đúng pháp, và đúng như lời nói mà làm? Nghĩa là tự mình chẳng giết hại, chẳng dạy người khác giết hại, cho đến tự mình tu chánh kiến và cũng dạy người tu chánh kiến; nếu ai được như vậy, mới gọi là chân chánh thiện tri thức. Lại nữa, tự tu đạo Bồ Đề và cũng dạy người tu đạo Bồ Đề, vì nghĩa ấy nên gọi là thiện tri thức. Hoặc là tự có thể tu hạnh tín, giới, bố thí, đa văn, trí huệ, vì những lẽ đó mà gọi là thiện tri thức.
Bậc thiện tri thức cần phải có pháp lành. Pháp lành là gì? Là việc mình làm, tự chẳng cầu vui cho mình mà thường vì cầu vui cho chúng sanh.
Khi thấy người có lỗi, mình chẳng nên nói điều dở mà thường nói điều trọn lành. Bởi những nghĩa đó, nên gọi là thiện tri thức.
Cần cầu bậc thiện tri thức, thân tâm đừng sinh mệt mỏi. Thấy thiện tri thức, đừng sinh lòng nhàm chán; học hỏi với thiện tri thức, đừng sợ khó nhọc; gần gũi thiện tri thức, đừng sinh tâm thối lui; cúng dường thiện tri thức, đừng cho gián đoạn; tùy thuận theo lời dạy dỗ của thiện tri thức mà đừng chống trái; những công đức của thiện tri thức, đừng sinh lòng nghi; khi thiện tri thức diễn nói, phải quyết định mở cửa lòng xuất ly mà nghe; nhận thấy thiện tri thức tùy theo hạnh phiền não, đừng sinh lòng hiềm quái; đối với thiện tri thức, lòng tin phải vững chắc, chớ thay đổi. Tại sao? Vì Bồ Tát nhờ thiện tri thức mà được học hỏi các hạnh Bồ Tát. Do đó mới thành tựu được tất cả công đức của Bồ Tát và được xuất sinh đại nguyện cùng trí huệ quang minh rực rỡ. Lại nữa, nhờ đó mới được dẫn phát thiện căn Bồ Tát và chứng được đạo quả Như Lai Bồ Đề, để nhiếp lấy hạnh mầu nhiệm và sức tự tại cùng là xuất sinh sức đại từ đại bi của Bồ Tát. Này thiện nam tử! Bồ Tát nhờ sự giúp đỡ của thiện tri thức mà chẳng sa đọa ác thú; nương nhờ sự thành tựu của thiện tri thức mà được tự tại thọ sinh; nương nhờ sức mạnh của thiện tri thức mà phá tan nghiệp báo; nhờ mặc áo giáp nhẫn nhục của thiện tri thức mà chẳng bị một lời nói xấu ác; nương nhờ sự sinh trưởng của thiện tri thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn vậy”.
Năm sau, việc khai khẩn đất hoang, trồng lúa, trồng rau, phát triển được hơn một trăm bốn mươi mẫu. Ngoài ra còn có rất nhiều loại cây ăn trái, hoa quả v.v… Mảnh đất hoang vu đã biến thành nơi trồng trọt trù phú, khiến chính quyền địa phương bên ngoài dòm ngó. Cơ quan an ninh địa phương thiết lập trạm kiểm soát trên núi, bắt chư tăng ghi khai hộ khẩu, rồi lấy cớ là họ sống trái phép, bắt họ đi qua khai thác những nơi khác, hầu chiếm lấy mảnh đất trù phú mà chùa mới vừa khai khẩn, cắt đi nguồn lợi tức sinh sống của tự viện. Họ tịch thâu hết rau quả, trái cây của chùa, rồi cho người đo lường tính toán phạm vi đất chùa và kết luận nhà chùa xây dựng trái phép nên chiếm đoạt toàn thể tài sản của chùa. Lúc đầu, Hòa thượng Hư Vân cố ẩn nhẫn, nhưng sau đó họ lại chiếm luôn am tranh của ngài và đuổi ngài đi nơi khác. Cực chẳng đã, ngài đánh điện lên Bắc Kinh, thuật lại những sự việc đã và đang xảy ra. Tuy chính quyền trung ương không ưa gì ngài, nhưng họ cũng không muốn ngài trở lại thành phố, nên họ ra lệnh cho chính quyền địa phương phải hoàn trả lại đất đai cho chùa khai khẩn, quản lý. Chính quyền địa phương không dám cãi lệnh thượng cấp nhưng họ cố tình kéo dài việc này từ đầu năm đến cuối năm, để khai thác hoa màu, rồi mới trả. Họ còn vu khống, nói rằng vì ngài chèn ép áp bức họ nên họ mới sinh sự như vậy.
Khi ấy, đệ tử của ngài ở khắp nơi, đổ dồn về núi ngày một đông, gần một ngàn năm trăm vị. Các phòng xá vừa xây cất đều không đủ chỗ cho chư tăng nên phải dựng thêm chòi lá xung quanh núi. Chư tăng khắp nơi, ngàn dặm tìm đến học đạo với ngài mỗi ngày một đông. Vì quá đông, nên đại chúng thỉnh ngài thuyết pháp mỗi ngày. Từ đó, ngài bắt đầu thuyết pháp trở lại. Ngài thường viện dẫn gương tu hành của các bậc tiền bối, cùng mọi sự việc liên quan đến hoàn cảnh hiện tại và khai thị pháp yếu, cách thức tu hành cho những vị xuất gia cũng như tại gia. Ngài lại nói đến những biến cố vừa xảy ra cho mọi người hiểu rõ, cùng các công việc đồng áng v.v… Không việc gì mà ngài không bàn đến. Chư đệ tử ghi chép lại lời ngài đầy đủ.
Mùa xuân năm Dân Quốc thứ bốn mươi lăm (1956 – 1957), ngài kiến lập đại điện, điện Thiên Vương, lầu Hư Hoài, lầu Vân Hải, lầu chuông trống, cùng các điện đường, phòng xá. Trong việc trùng tu Vân Cư, ngài chiếu theo khuôn phép mô hình chùa Cổ Sơn, Nam Hoa, Vân Lâu. Tùy theo đất đai, phương hướng mà xoay xở biến hóa. Trước chùa có hồ Minh Nguyệt, hình tròn giống như mặt trăng, đường kính khoảng một trăm thước. Mỗi khi mặt trời lên, ánh sáng vàng tỏa khắp, phản chiếu điện đài. Phía bắc của hồ, ngài kiến lập cổng tam quan. Đi thẳng vào là chánh điện Tứ Thiên Vương. Đi vào nữa thì gặp Đại Hùng Bảo Điện. Đằng sau là pháp đường cùng lầu các chứa tạng kinh.
Đi qua vườn cây thì thấy đảnh Long Châu, khí thế hùng vĩ. Phía đông chùa có trai liêu Á Bộ, điện đường Báo Ân, nhà khách, nhà bếp, trai đường, Diên Thọ đường, Tổ đường. Phía tây có liêu phòng Như Ý, Tây Quy đường, Công Đức đường, Vãng Sinh đường, Thượng Khách đường, phòng Duy Na, Thiền đường, phòng giám trực. Đằng sau là phòng phương trượng. Phòng xá lớn nhỏ có khoảng bảy, tám mươi căn.
Xung quanh chùa có những tượng đá A La Hán, rất trang nghiêm đẹp đẽ.
Xưa kia, lúc trú tại Vân Cư, thi sĩ Tô Đông Pha có nói: “Vân Cư là cảnh đẹp nhất trần gian”, quả không sai. Từ lúc Hòa thượng Hư Vân về núi, trải qua ba năm, lâu đài Phật quốc được xây cất liên tục, bảo tồn di tích đời Đường, Tống. Đạo hạnh sâu dày của ngài cảm ứng đến Long Thần hộ pháp mà gia hộ cho duyên pháp đều thành tựu. Thật không thể nghĩ bàn.
Vào mùa xuân và mùa hạ năm đó, đại chúng trú trên núi lên đến khoảng hai ngàn người, trong đó có rất nhiều nhân tài về kiến tạo, xây cất, cùng học giả nông lâm nghiệp, nên công trình xây cất, trồng trọt đều hoàn thành mau chóng. Lúc đó, bốn chúng khai khẩn trồng trọt hơn một trăm tám mươi mẫu, dọn được khoảng bảy mươi mẫu đất để trồng thêm hoa màu cây trái, thu hoạch đủ thực phẩm cho đại chúng dùng. Năm đó thu hoạch được khoảng hơn bốn mươi ngàn năm trăm ký lúa, hơn sáu mươi ngàn ký lương thực cùng cây trái, rau quả, trà ướp v.v… Từ đó, đại chúng luôn tích cực khai khẩn thêm đất hoang, trồng vườn, mới có thể nuôi được cả năm trăm tăng chúng thường trú.
Tháng Chín, mùa thu, khi sửa sang hồ Minh Nguyệt cùng đào suối Thanh Khê, ngài tìm được một tảng đá lớn, ghi khắc lại vài câu kệ của Thiền sư Phật Ấn khi xưa. Thiền sư Phật Ấn trụ trì tại Vân Cư, có bạn là thi sĩ Tô Đông Pha thường lui tới hầu chuyện. Ông Tô Đông Pha thường ngồi trên tảng đá đó, nên Hòa thượng Hư Vân đặt tên cho tảng đá là Đàm Tâm thạch (tức tảng đá đàm đạo về tâm). Bên cạnh tảng đá là con suối mà Hòa thượng Hư Vân cho xây một cây cầu để kỷ niệm, gọi là cầu Phật Ấn.
Phụ chú của cư sĩ Sầm Học Lữ
Trong việc kiến lập trùng hưng Tổ đình xưa nay, Hòa thượng Hư Vân chưa từng cầu cạnh người, mà duyên pháp tự nhiên đến. Thật không thể nghĩ bàn. Việc xây cất trùng tu lại chùa Vân Cư, thiện tín mười phương đồng tùy hỷ cúng dường, đại chúng cùng nhau dũng mãnh thi công kiến thiết. Nào là đệ tử Khoan Huệ ở Hồng Kông, nghe tin ngài đang xây lại chùa chiền, liền mở pháp hội Dược Sư, quyên được cả mười ngàn đồng. Một thương gia ở Bắc Mỹ là bà Chiêm Lệ Ngô, chưa từng gặp mặt ngài, cũng cúng dường cả mười ngàn đồng. Cư sĩ Ngô Tánh Thí ở Thượng Hải, lên núi Vân Cư thăm ngài. Lúc lên núi, thấy đường lộ cheo leo ngoằn ngoèo, nên phát nguyện cúng dường một trăm ngàn đồng để sửa chữa đường sá. Theo các tài liệu ghi lại, thì ngài đã trùng tu, kiến tạo lại vài mươi ngôi chùa lớn nhỏ trong toàn quốc. Lúc nào cũng thế, một mình ngài chống tích trượng lên núi hoang. Khi công trình xây cất sửa sang hoàn thành thì ngài lại giao cho chư tăng, rồi một mình chống gậy xuống núi. Việc xây cất các tự viện trên núi Vân Cư, dường như luôn có Long Thần hộ pháp gia hộ. Kể từ lúc khởi đầu công việc xây cất, đến nay đã trải qua mấy thu rồi, mà muôn việc lành đều đến, chùa chiền luôn được tín thí bốn sự cúng dường. Người người đều mong ngài an cư nơi Vân Cư.
Năm Dân Quốc thứ bốn mươi sáu (1957 – 1958), Hòa thượng Hư Vân được một trăm mười tám tuổi. Thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ họ Ngô, ngài cho sửa chữa đường đi lên núi từ bến đò Trương Công. Con lộ rộng khoảng sáu thước, dài mười tám dặm, vòng quanh sườn núi, chót vót cheo leo. Quanh núi có những dòng suối lớn, nên ngài cho trùng tu những cây cầu giúp người qua suối, như cầu Long Vương, cầu Thu Vân, cầu Vân Ấm, trạm Quy Thủy v.v… Sau khi công trình xây dựng hoàn tất, Hòa thượng Hư Vân khắc ghi lại sự tích của cầu Phi Hồng ở ải Triệu Châu. Vì đường sá đã thuận tiện, chư Phật tử ở xa kéo đến thăm chùa mỗi ngày một nhiều nên cơ quan công an địa phương rất thích vùng đất này. Họ hủy bỏ quy ước năm 1953, cho phép thành lập nông trường Tăng Già, mà tự thiết lập riêng kế hoạch thành lập nhà lữ xá trên núi để biến nơi đây thành chỗ cho du khách đến nghỉ mát.
Họ sai hơn hai mươi công an lên núi, đo lại diện tích chùa, rồi chiếm lấy các đất đai quanh đó để xây khách sạn, họ còn chiếm luôn am tranh của Hòa thượng Hư Vân, ra lệnh cho ngài phải trở về sống trong chùa.
Không thể cứu vãn được tình thế, ngài lại đánh điện trình báo lên Bắc Kinh. Vài ngày sau, chính quyền địa phương được lệnh phải trả lại tất cả tài sản đất đai khai khẩn, trồng trọt cho tăng chúng. Tuy phải theo lệnh thượng cấp, nhưng họ rất oán ghét Hòa thượng Hư Vân vì cho rằng ngài ỷ lại thế lực, quen biết thượng cấp, câu thông trong ngoài mà chèn ép họ. Thật ra, họ muốn gieo họa cho ngài lúc nào mà chẳng được!
Trong tháng, thầy trụ trì chùa Vân Cư là Hải Đăng, khai giảng kinh Pháp Hoa, cùng tuyển chọn ba mươi thanh niên tăng, thành lập Viện Nghiên cứu Phật học để đào tạo tăng tài.
Năm Dân Quốc thứ bốn mươi bảy (1958 – 1959), chính quyền trung ương cho phát động phong trào học tập, cải tạo các đoàn thể tôn giáo. Họ bắt chư tăng trụ trì các chùa chiền phải đến ghi tên tham dự các khóa học tập cải tạo. Hòa thượng Hư Vân viện lý do già bệnh nên khước từ không đến. Trong khóa học tập, thầy Bổn Khoán trụ trì chùa Nam Hoa, thầy Truyền Sĩ tri sự chùa Vân Cư, thầy Phật Nguyên trụ trì chùa Vân Môn, cùng các thầy Kiến Tánh, Ấn Khai v.v… bị chính quyền kết tội là theo khuynh hướng “Xét lại” và bị mang ra đấu tố. Họ bị ép buộc phải tố cáo ngài, nhưng tất cả đều bất khuất, không chịu làm theo uy quyền. Nhân cơ hội, nhóm công an địa phương, sẵn có thành kiến với ngài, vội tìm cách hãm hại. Họ viết ra mười tội trạng của ngài, nào là tham ô, phản động, tụ chúng, giả bộ đạo đức, truyền giới pháp sai lầm v.v… Những lời vu khống đó, đau đớn thay, lại phát xuất từ cửa miệng của một nhóm tăng sĩ thuộc Liên hội Phật giáo Trung Quốc. Bên ngoài chùa Nam Hoa, Vân Môn, Vân Cư, họ cho dán bích chương, biểu ngữ với nội dung: “Ông già ngoan cố, bóc lột, phải được đấu tranh, tẩy não, cải tạo”, cùng các bích chương vu khống tội lỗi ngài. Bốn chúng đệ tử muốn đính chính những sự việc vu khống này, nhưng ngài không cho phép. Từ lúc chính quyền cho thành lập “Liên hội Phật giáo Trung Quốc” thì nhà nước bắt đầu phát lương cho các tăng sĩ, mỗi tháng là một trăm đồng. Hòa thượng Hư Vân từ chối không lãnh tiền này nhưng ngài vẫn nhận sự cúng dường của tín chúng.
Sau kỳ học tập và cải tạo ở Hán Khẩu, những vị đệ tử thủ cựu, đắc lực của ngài đều bị chính quyền bắt giam hay mang đi phân tán hết, còn ngài thì bị chính quyền địa phương bắt giam riêng rẽ tại một nơi cố định để điều tra, nhưng trải qua mấy tháng, cũng không tìm được tội trạng gì.
Trong trại học tập cải tạo, phần lớn tăng chúng đều không chịu ký tên vào các bản cáo trạng, vu khống ngài, nhưng ban tổ chức cũng tìm được một vài người ký tên vào bản tố cáo. Khi bản văn tố cáo tội trạng của ngài được đưa lên tới các nhân vật cao cấp ở trung ương đảng xét xử thì họ lại ra lệnh cho chính quyền địa phương không nên bài trừ ngài. Vì vậy, ngài thoát khỏi họa, chuyển nghịch cảnh thành thuận cảnh. Ngày mười lăm tháng Chín, xứ trưởng công an địa phương là Trương Kiến Dân dẫn hơn một chục tên công an, đến am tranh của ngài lục soát, chẳng tìm được gì. Họ tịch thu hết những văn kiện, giấy tờ, kinh điển v.v… mà không thèm trả lại. Thỉnh cầu vài lần mà họ vẫn không đưa lại.
Trải qua bao tháng trường bị nhiều điều ưu phiền, hoạn nạn, bệnh trạng ủa ngài ngày một tăng thêm. Năm trước, khi lễ Phật, ngài không cần người giúp. Năm nay, mỗi lần lễ Phật là phải nhờ thị giả trợ giúp. Việc này dự báo rằng huyễn duyên của ngài sắp hết! Ngày nọ, ngài gọi hai vị thị giả đến, dặn dò di chúc. Ngày mười chín tháng Mười, ngài ra chánh điện thuyết bài pháp cuối cùng cho đại chúng.
Video: Trich đoạn
Nguồn Internet