Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
✨Chương Một: Chỉ là Thức biến 👉 Xem
✨Chương Hai: Cấu Trúc của Tâm 👉 Xem
✨Chương Ba: Chức Năng của Tâm 👉 Xem
✨Chương Bốn: Tích lũy Kinh nghiệm 👉 Xem
✨Chương Năm: Sự phát sinh của các pháp 👉 Xem
✨Chương Sáu: Vùng tiềm tàng của Tâm 👉 Xem
✨Chương Bảy: Tâm Tư lương 👉 Xem
✨Chương Tám: Chức Năng của Tiền Ngũ Thức 👉 Xem
✨Chương Chín: Tôi là ai? 👉 Xem
✨Chương Muời: Quãng Đường tới Phật Quả 👉 Xem
✨Kết Luận: Duy Thức Ngày Nay 👉 Xem
PHỤ BẢN: Mở Khóa Bí Mật Giữa Sống Và Chết
✨ Sống và Chết 👉 Xem
✨ Chín Tầng Tâm Thức 👉 Xem
✨ Thiền và Bộ Não 👉 Xem
✨ Phương pháp Tu tập 👉 Xem
✨ Kết luận 👉 Xem
✨ Truyện Im Lặng Sấm Sét 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
Tác giả: TAGAWA SHUN’EI
Anh ngữ: CHARLES MULLER
Biên dịch: THUẦN BẠCH & HUỆ THIỆN
Chương Một: CHỈ LÀ THỨC BIẾN
Kết lư tại nhân cảnh,
Nhi vô xa mã huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ?
Tâm viễn địa tự thiên.
Thái cúc Đông ly hạ,
Du nhiên kiến Nam sơn.
Sơn khí nhật tịch giai,
Phi điểu tương dữ hoàn,
Thử trung hữu chân ý,
Dục biện dĩ vong ngôn.
Dịch:
Am chỗ đông người qua
Mà không ồn ngựa xe
Hỏi anh sao được vậy?
Tâm xa đất dời xa.
Bờ dậu Đông hái cúc,
Thấy núi Nam xa mờ.
Hoàng hôn khí núi đẹp,
Từng đàn chim bay về,
Ở đây có chân ý,
Muốn nói lời chẳng ra.
Đào Uyên Minh, “Ẩm Tửu”
Có lẽ quí vị ngạc nhiên là tôi đã chọn bài thơ “Uống Rượu” của Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) để mở đầu cho buổi thảo luận này. Tuy nhiên, vì chúng ta sắp ứng dụng Duy Thức Học Phật Giáo trên quan điểm ứng xử trong cuộc sống hằng ngày, nên tôi muốn dùng bài thơ này như điểm khởi đầu.
Tôi được biết bài thơ Trung Hoa này lần đầu tiên khi học năm thứ hai trung học. Từ đó cứ đọc đi đọc lại mãi bài thơ, và mỗi lần đọc tôi lại nhớ đến câu cách ngôn: “Đại ẩn tại thị; tiểu ẩn tại sơn.” Giáo sư của chúng tôi, ông U., có dạy câu cách ngôn này mục đích rút ra ý nghĩa bài thơ. Tôi nhớ lúc đó tôi còn hơi mờ mịt về ý thơ, nhưng sau này khi đã vào được thế giới đạo Phật, bài thơ trở nên rõ nghĩa hơn.
Thông thường một người tập thiền trong Phật điện đang cố tìm giác ngộ như một loại mục tiêu xa xôi nào nhưng sự thực là chùa chiền, trung tâm thiền tập, và Phật đạo có mặt không vì mục đích nào khác hơn là giúp chúng ta tự hiểu mình một cách trọn vẹn và chính xác ngay đây và bây giờ.
Nơi chúng ta bây giờ đang có mặt, như bài thơ của Đào Uyên Minh diễn tả, một căn nhà giữa thế gian đông người, đích thực là trung tâm thiền tập của chúng ta; và chẳng ích lợi gì khi cố gắng tìm cách trốn chạy. Chúng ta có thể nghĩ Phật đạo và thiền đường như kiểu nhà đại ẩn “trốn lánh phố thị.” Đây là lý do chính khiến bài thơ âm vang đến tôi nên tôi đọc tiếp.
Nhưng cũng có một lý do khác nữa.
Đào Uyên Minh đã nói với chúng ta rằng trong thế gian náo động của muôn người – sống giữa thành thị – ông nghe tiếng xe cộ không ồn ào. Để trả lời câu hỏi của chính mình, ông đã đi tới kết luận là khi tâm xa đất dời xa.” Tôi hiểu khi tâm xa là khi tâm xa rời dấu vết của vướng mắc buộc ràng. Thế thì cái gì là thế giới của chúng ta, khi được nhìn bởi một người có tâm rời xa? Dù đó là một người năng nổ chỉ huy trong sinh hoạt thế gian hay, mặt khác, một người thuần về tâm linh tỉnh giác cao độ về những hậu quả của ngã chấp sâu dày – cả hai loại người này, rốt cuộc cũng bị đè bẹp và cuốn trôi theo dòng thế tục. Tuy nhiên chúng ta có thể chắc chắn rằng họ đang nhận thức hoàn cảnh sống riêng trên đường đời một cách khác nhau.
Nhà đại ẩn Đào Uyên Minh nói với chúng ta là ông đã thoát khỏi thế gian náo động muôn người. Nhưng còn chúng ta thì sao? Chúng ta, những con người bình thường hay tìm cách thoát ra khỏi cuộc sống hằng ngày theo lối tiểu ẩn đi vào thâm sơn cùng cốc để sống một mình. Nếu suy nghĩ cho cùng, có thể nói rằng sống trong cùng một thế giới, mỗi chúng ta nhìn sự vật khác nhau theo kiểu của mình, và thực ra lại hợp lý khi mỗi người chúng ta sống trong thế giới của riêng mình. Lưu tâm tới điều này thật là thú vị, khi chúng ta thu thập những kinh nghiệm sống hằng ngày, nhưng trên bình diện khác, điều này cũng hơi đáng sợ.
Khi được Đào Uyên Minh cảnh giác về “tâm rời xa”, điều chúng ta cần cân nhắc là sự “rời xa” ấy thật sự là một chức năng của tâm, và nếu đúng như thế, có phải là chức năng căn bản, sẵn có hay có thể còn là bản tính của tâm?
Duy Thức học chúng ta sắp thảo luận xây dựng cấu trúc Phật Giáo, nghiên cứu kỹ càng những vấn đề liên quan đến sự hình thành và chức năng của tâm.
Nhiệm vụ của Duy Thức là cố gắng vẽ ra thật chính xác cấu trúc cụ thể của tâm, kết quả đã đưa ra sự hiểu biết sâu xa về tương quan giữa chúng ta và muôn ngàn sự vật chung quanh mình, và liên hệ với lời dạy căn bản của Đức Phật Thích Ca. Nguyên lý căn bản của Duy Thức thường được nhắc tới là “chỉ là thức,” chính xác hơn có nghĩa “chỉ là thức biến.”
Đặc tính “chỉ là thức biến” có thể diễn rộng ra như “không có điều gì mà không phải là thức biến.” Tuy nhiên tôi e rằng bắt đầu với phương cách có vẻ khó hiểu này có thể không giúp những người lần đầu tiên làm quen với đề tài này, vì vậy tôi muốn lui lại và tạm thời sử dụng một phương cách nhẹ nhàng hơn.
Nghe tiếng vỗ tay,
Cá bơi đi tìm mồi;
Chim sợ hãi bay đi và
Cô gái mang trà tới – Hồ Sarusawa.
Đây là một đoạn thơ “tanka[1]” của Nhật, nói lên cách diễn giải khác nhau của một sự việc, dựa trên vài hình ảnh truyền thống của Nhật. Nếu có người vỗ tay thì cá (đã được tập ngoi lên khi nghe tiếng vỗ tay cho ăn) sẽ bơi vào bờ để ăn; chim ngược lại sẽ bay đi vì sợ. Tuy nhiên, đối với cô chiêu đãi trong một quán trọ thì đó là dấu hiệu khách muốn uống trà.
Hồ Sarusawa nằm trong khu du lịch nổi tiếng ở Nara. Bài thơ này được sáng tác vì có nhiều quán trọ ở đó. Địa điểm này cũng nổi tiếng vì từ bờ hồ có thể nhìn ngắm nét đẹp ngôi chùa Hưng Phước năm tầng.
Duy Thức là học thuyết của Pháp tướng tông, một trong sáu tông phái ở miền nam (Nara), và Hưng Phước tự là trung tâm nghiên cứu học thuyết Pháp tướng phát triển từ lâu. Vì thế đoạn thơ tanka này khi mới đọc sơ qua không có vẻ gì đặc biệt, nhưng đã diễn tả trực tiếp cốt tủy tư duy theo Duy Thức.
Chủ đề bài thơ là một động tác cực kỳ đơn giản “vỗ tay.” Bài thơ chứng tỏ mặc dù đặc tính hành động đơn giản, và tiếng động phát sinh từ đó, ý nghĩa lại rất khác nhau tùy theo hoàn cảnh mỗi cá nhân khi nghe tiếng vỗ taỵ Mặt khác, chúng ta có thể lưu ý đến trường hợp khi thấy đi thấy lại một vật nhiều lần. Ai cũng có kinh nghiệm về việc mình có những cảm tưởng khác nhau về một vật đặc biệt nào tùy theo cảm xúc hay hoàn cảnh lúc đó. Lý do là chúng ta nhìn vật dưới ảnh hưởng tâm ý của ta lúc bấy giờ. Dĩ nhiên là có những lúc khi nhìn một vật, ta thường không tỉnh giác về những cảm xúc của mình được phóng ra trong tình huống ngay đó.
Nhìn sự vật như thế, điều gọi là nhận thức của chúng ta, hay tác ý phân biệt sự vật được chúng ta nhận thức, không bao giờ trong bất cứ trường hợp nào là nhận thức thế giới ngoại tại đúng như thật, mà chỉ là thế giới được nhận biết qua tiếp xúc với trạng thái tâm chúng ta lúc đó. Nói cách khác, đó chỉ là sản phẩm do tâm chúng ta tạo dựng và xác định nội dung sản phẩm đó. Đó là ý nghĩa của “chỉ là thức” hay “tất cả chỉ là thức biến.” Và, nếu nhìn lại mình, ngay cả chúng ta cũng chỉ là những sự vật (pháp) trụ trong một thế giới hạn cuộc do tâm chính mình tạo dựng.
Thật sự điều này có chiều hướng có vẻ rất đáng sợ. Tại sao vậy? Bởi vì nếu tâm phong phú, tôi có thể kinh nghiệm được một đời sống trong một thế giới phong nhiêu; nhưng trên khía cạnh khác nếu tâm nghèo nàn, không có gì để tôi trông cậy ngoài chính tôi ra để sống trong một thế giới nghèo nàn.
Nếu tôi không thể nương tựa vào đâu để sống qua ngày trong sự nghèo khổ thì kiếp người thật là hạn hẹp đáng buồn. Tuy nhiên, khái niệm “chỉ là thức biến” chỉ cho chúng ta một cách chính xác kiểu thực tại chúng ta kinh nghiệm được. Vì thế chúng ta có thể phát triển sự tỉnh giác thâm sâu là không có gì để nương tựa mà phải liên tục quán chiếu tự thân. Nỗ lực sống một cuộc đời với sự quán chiếu miên mật chính là chúng ta đang tu tập Duy Thức học Phật Giáo.
BỐN KHÍA CẠNH NHẬN THỨC VÀ BA LOẠI ĐỐI TƯỢNG (TAM CẢNH)
Chúng ta đã bắt đầu vào đề tài Duy Thức và chỉ là thức biến bằng hình ảnh thơ ca. Tôi muốn được tiếp tục cống hiến quí vị thêm vài thí dụ về kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày với hy vọng giúp vấn đề được sáng tỏ hơn.
Giữa cuộc sống đời thường chúng ta luôn luôn kinh nghiệm chức năng thấy, nghe, suy nghĩ, và cho rằng ta trực tiếp thấy, nghe, và hiểu biết được thế giới ngoại tại. Nhưng khi phân tích kỹ hơn, không phải thực như vậỵ Theo Duy Thức Học Phật giáo, vật gì ta đang nhận biết là những hình ảnh sự vật bên ngoài đã bị thức biến và phản chiếu lại trên tâm chúng ta. Như thế, chúng ta thấy nghe những sự vật (các pháp) thế gian không phải đích thực như chúng đang là. Mọi sự vật chung quanh chúng ta đều bị thức biến hiện. Đó là sự tiếp cận căn bản của Duy Thức để chúng ta hiểu được mối liên lạc giữa mình và ngoại cảnh.
Chúng ta cho rằng mình cảm nhận và nhìn thấy cảnh núi non phía xa với áng mây trải dài trước mắt y như thực sự đang xuất hiện. Chúng ta cũng nghĩ rằng mình biết được con người và những cảnh vật chung quanh trong đời sống hằng ngày một cách chính xác. Và chúng ta không thích khi có ai đó chỉ cho thấy cái nhìn của mình thiếu khách quan và sai lầm.
Tuy nhiên, nếu ngọn núi chúng ta thấy là một thực thể đơn giản, khi nghĩ kỹ lại rõ ràng chúng ta thấy ngọn núi qua trung gian sự phóng chiếu từ những tâm trạng khác nhau của chúng ta là những cá nhân riêng biệt. Thay vì nhìn ngọn núi như đang là (như thị), vật chúng ta thực sự thấy là một ngọn núi đã bị tâm chúng ta biến đổi và tô vẽ thêm.
Thông thường họa sĩ cầm cây cọ lên vì nguồn cảm xúc trước cảnh núi non. Khi nhìn cảnh núi Phú Sĩ được các họa sĩ danh tiếng Nhật Bản như Hayashitake và Ryuzaburo Umehara vẽ, ngay cả trên lý thuyết chúng ta thấy tác phẩm của họ chính là hình ảnh của ngọn núi, kết quả là ngọn Phú Sĩ được vẽ trên vải vẫn khác xa với ngọn núi thật rất nhiều.
Ưu tư về vấn đề này, Nakagawa Kazumasa (một họa sĩ danh tiếng còn tại thế) viết rằng công việc của họa sĩ là “sửa sang” vật gì được mang vào tâm ông, trong khi tâm nhận được cảm giác sâu sắc này lại “tháo gỡ” hình nét. Nếu đúng như thế, chúng ta có thể nói rằng hình ảnh méo mó của núi Phú Sĩ khi vẽ ra trên khung vải là hình ảnh đã bị biến thể trong tâm họa sĩ tùy theo cảm giác nhận được, và đó là tất cả những gì họa sĩ nắm giữ được.
Mặc dù chưa thấy rõ những méo mó nghệ thuật này trong sinh hoạt đời thường, nhưng cuộc sống chúng ta cũng giống như những họa sĩ kia, chúng ta nhận thấy sự vật mình tiếp xúc khác nhau tùy theo tâm trạng khác nhau. Và có thể tiến xa hơn một chút để nói rằng chúng ta cũng làm biến thể và nhận thức sự vật theo cách tiện lợi nhất cho cuộc sống của mình. Theo Duy Thức Học, đây là thực tế hiển nhiên trong việc chúng ta hiện hữu.
Vì tâm chúng ta làm việc như một tác nhân thể hiện những sự vật được nhận biết, các nhà Duy Thức thay vì gọi đơn giản là “tâm,” lại ưa gọi là “tâm biến hiện” hay “tâm là tác nhân biến hiện.” Cùng một cách thức như thế, vì những đối tượng ta nhận biết (cảnh giới khách quan) là sự vật thật ra được tâm là-một-tác-nhân-biến-hiện thể hiện, nên được gọi là “sự vật đã được biến hiện” thay vì chỉ đơn thuần là sự vật.
Để giải thích những chức năng của tâm biến hiện sự vật một cách chủ quan và những sự vật bị biến hiện một cách khách quan bằng một hệ thống chặt chẽ, Duy Thức đã phát triển giáo lý về bốn khía cạnh nhận thức và ba loại đối tượng. Giải thích về bốn khía cạnh nhận thức sẽ làm sáng tỏ chức năng của tâm trong vai trò là chủ thể biến hiện, và giải thích về ba loại đối tượng sẽ làm sáng tỏ đặc tính của đối tượng bị biến hiện.
Trong phạm vi những lý thuyết này, Duy Thức phân tích rất tỉ mỉ về chức năng nhận biết của chúng ta. Lối phân tích vi tế này hơi khó hiểu khi mới học, nhưng cũng đáng để ta cố gắng tìm hiểu, vì một khi đã hiểu được có thể nói rằng ta đã thâm nhập được giáo lý cốt lõi của Duy Thức. Vì vậy có câu nói: “Nếu hiểu được bốn khía cạnh nhận thức và ba loại đối tượng tất đã hiểu được phân nửa về Duy Thức.”
BỐN KHÍA CẠNH NHẬN THỨC
Trong phần lý thuyết của bốn khía cạnh nhận thức, khi làm sáng tỏ vận hành của “tâm tác động như tác nhân biến hiện,” sẽ cho chúng ta biết rằng quá trình chức năng nhận thức có thể chia làm bốn phần:
- Tướng phần (khía cạnh đối tượng),
- Kiến phần (khía cạnh chủ thể),
- Tự chứng phần
- Chứng tự chứng phần.
Trong quá trình nhận thức bất cứ sự vật gì, bước đầu tiên là chức năng tâm hành của tâm nhận biết sự vật và sau đó xác định đó là vật gì. Một cách tổng quát, ta hiểu rằng đây là một vật ở ngoài (là ở ngoài tâm), được xem là đối tượng, và tâm nhận diện nó một cách chủ quan. Phần lớn ai cũng nghĩ như thế. Tuy nhiên theo Duy Thức Học, khi chức năng nhận thức của tâm tác động, tâm thực sự tự chia thành bốn khía cạnh, tùy thuộc vào chức năng riêng, và chức năng nhận thức đó được thiết lập trên sự phân chia này.
Đây là bốn khía cạnh của
- vật được nhận biết (Tướng phần),
- cái nhận biết (Kiến phần),
- xác nhận điều nhận biết (Tự chứng phần)
- sự nhận biết điều xác nhận đó (Chứng tự chứng phần).
Thông thường ngay cả trong trường hợp chúng ta quả quyết là mình đang nhận thức và hiểu điều gì đó ngoài tâm, thật ra điều đó đã được chuyển biến trong tâm của chúng ta. Nói cách khác, tuy rằng vật hiện ra trong tâm chỉ là hình ảnh tương tự với vật đó, chúng ta vẫn cho đó là vật thật mình đã nhận thức.
Nếu đúng như thế, có thể nói rộng hơn rằng điều chúng ta gọi là sự nhận thức chỉ là “tâm nhìn tâm.” Nói như thế chắc chắn không sai, nhưng cũng không phải đơn giản. Điều này sẽ được giải thích cặn kẽ hơn ở phần sau. Sự phân tích bốn khía cạnh này – nhất là ý niệm về đối tượng bên ngoài bị biến thể không còn giống với nguyên thủy vì là đối tượng của tâm, và bị xem như là một hình ảnh – có nguồn gốc trong Duy Thức Tông, vì từ yogacara (pháp tu Du-già) liên quan đến việc tập trung định tâm.
Hiểu thông thường ý niệm tập trung tâm ý trong khi thiền định thường liên quan đến việc buông bỏ giao tiếp với thế giới bên ngoài – chắc chắn trong trạng thái thiền định thâm sâu phải rất ít liên lạc với những vật cụ thể. Tuy nhiên, những người tu yoga thường có kinh nghiệm thấy được hình ảnh Đức Phật trong tầng định sâu. Dĩ nhiên vị Phật đó là vị Phật được thấy trong tâm của thiền giả, và không có vị Phật sống nào hiện diện ứng với hình ảnh đó.
Dựa trên kinh nghiệm này, hành giả Duy Thức đi tới kết luận là vật nhận thức được gọi “Đức Phật” là một hóa hiện trong tâm chúng ta. Khi dần dần hiểu ra chức năng của tâm xác nhận vật thấy được trong thiền định chính là Đức Phật (không phải một điều gì, một người nào khác hơn Phật), cuối cùng họ xây dựng lý thuyết bốn khía cạnh nhận thức.
Lý thuyết bốn khía cạnh nhận thức nhận cả hai loại đối tượng, đối tượng do giác quan nhận được trong đời sống và đối tượng hóa hiện trong tâm của chúng ta. Xem điều này là trọng điểm, và suy nghiệm trên sự giả định thấy sự vật y như chúng đang là, chúng ta sẽ đạt được một sự hiểu biết thô thiển là những sự vật đó thật ra không bao giờ được nhìn thấy một cách nào khác trừ phi thích hợp với tâm của chúng ta. Đến một mức nào đó, chức năng tâm của chúng ta phải bị giới hạn: không có một lý do nào để giả định rằng chúng ta thấy được sự vật như thị. Do đó đặc tính “tất cả chỉ là thức biến” ám chỉ một cách mạnh mẽ rằng chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng điều chúng ta cho là thấy được sự vật như thị.
Sự phân chia những chức năng nhận thức thành bốn, Tướng phần, Kiến phần, Tự chứng phần, Chứng tự chứng phần, thường khó lĩnh hội được ngay. Để tiến trình này dễ lĩnh hội, từ lâu người ta ví dụ việc đo một khúc vải. Khúc vải tượng trưng cho Tướng phần, cây thước là Kiến phần. Tự chứng phần được coi như là chức năng để biết số đo khúc vải, và Chứng tự chứng phần được tượng trưng bằng sự ghi lại số đo này.
Một cách khác để hiểu về bốn khía cạnh qua trường hợp sau. Như ngay lúc này tôi nói, “Tôi đang nhìn đồng hồ và bây giờ là 7:30.” Trường hợp này, đồng hồ là Tướng phần và hành động nhìn đồng hồ là Kiến phần. Sau nữa, sự xác định là kim đồng hồ ở vị trí 7:30 giống như Tự chứng phần. Rồi nữa, và thường có trường hợp ý thức xác nhận lại cái biết, đó là giai đoạn Chứng tự chứng phần.
BA LOẠI ĐỐI TƯỢNG ĐÃ BỊ BIẾN HIỆN
Ba loại này đã được sử dụng để làm sáng tỏ đặc tính những đối tượng đã được biến hiện:
- Đối tượng như chúng đang là (hình ảnh thuần túy giác quan) – tánh cảnh
- Đối tượng chỉ là ảo giác – độc ảnh cảnh
- Đối tượng hiện ra biến thể từ tánh cảnh nhưng bị nhận thức sai lạc – đới chất cảnh.
Ở đây chúng tôi muốn giới thiệu những khái niệm nhưng không đi sâu vào chi tiết. Nhưng xin quí vị độc giả hiểu cho rằng loại “đối tượng nhận thức” được thảo luận ở đây không gì khác hơn là Tướng phần (đã được thảo luận ở trên) hiển hiện qua sự biến hiện trong tâm. Ba loại này được phân biệt theo phạm vi đặt căn bản trên kinh nghiệm thuần túy giác quan (để cho đơn giản dễ hiểu, chúng ta gọi là sự vật thực của ngoại cảnh).
- Những đối tượng xuất hiện như đang là là những hình ảnh được thể hiện qua sự biến hiện căn cứ trên giác quan thuần túy (tánh cảnh), và là những đối tượng nhận thức đúng.
- Mặt khác, những đối tượng toàn là do tưởng tượng không dính líu gì đến giác quan, chỉ là những hình ảnh được phóng chiếu lên tâm qua năng lực chú ý mà tâm tự phát sinh, và như thế là đối tượng nhận thức hoàn toàn vô căn cứ. Ảo giác là thí dụ tốt thuộc loại đối tượng này.
- Sự vật “bắt nguồn từ thuần túy giác quan nhưng bị nhận thức lệch lạc” là những đối tượng tuy có căn cứ trên giác quan nhưng vì những lý do nào đó không thể hiểu đúng được, và như vậy là những đối tượng bị “hiểu lầm,” “hiểu sai,” “nhận diện không đúng.”
Chúng ta tiếp xúc với những sự vật khác nhau hằng ngày, giao tiếp với đủ loại người, và gặp những tình huống khác nhau trong cuộc sống. Có những lúc, rất là tự nhiên, chúng ta nghĩ – đối với những đối tượng ta nhận biết, suy tư và đánh giá – rằng chúng ta trực tiếp thấy, nghe, rồi đánh giá thế này, thế kia. Tuy nhiên, theo Duy Thức Học Phật Giáo, những đối tượng ấy đã bị tô màu và biến hiện trong tâm chúng ta trong quá trình thể hiện.
Có những vị phản đối nói rằng chính hoàn cảnh quyết định tâm thức. Tuy nhiên, sự liên hệ giữa ta và sự vật quanh ta không đơn giản như thế. Như chúng ta đã thấy, trường hợp tâm quyết định hoàn cảnh thì nhiều hơn, và “cái tôi” bị ngoại cảnh vây quanh đã được bí mật thể hiện qua sự biến hiện, một lần nữa bị chúng ta nhận biết. Điều này được hiểu như là sự vật hình thành thật sự.
Tuy không đủ chứng cớ để yểm trợ trường hợp này, chúng ta có khuynh hướng nhất quyết cho rằng cách chúng ta nhìn sự vật không hề bị méo mó. Nhưng khi theo sát đường lối suy nghĩ của Duy Thức Học, sẽ giải tỏa vấn đề về việc không thể sai lầm này.
[1] Đoản ca.
Video: Toàn bộ
Nguồn Internet