Duy Thức Học
✍️ Mục lục: Duy Thức Học
⭐ Duy Thức Trong Đời Sống 👉 Xem
DUY THỨC TRONG ĐỜI SỐNG
THIỀN VÀ BỘ NÃO
Soạn dịch từ:
- Buddha,s Brain của Rick Hanson và Richard Mendius – Zen and the Brain của J. Austin
Khi xưa chúng tôi nghi vấn về ý căn trong pháp tu “Sáu căn khi tiếp xúc sáu trần không theo” (tu trong động) và bây giờ biết được ý căn – quan năng hay cơ sở vật chất cho toàn bộ tư tưởng, cảm nhận và tiền ngũ thức, ý thức, Mạt-na thức và A-lại-da thức vận hành – chính là bộ não.
TÌM HIỂU NÃO BỘ
- Cấu tạo của não bộ
Não gồm có ba phần: phần phía trên, phía giữa và phía dưới.
- Phần phía trên là đại não hay vỏ não (cerebrum hay cerebral cortex) rộng lớn nhất, có nhiều vùng chức năng cao cấp và phức tạp. Vỏ não được chia làm 4 vùng chính: vùng thùy trán (frontal lobe), vùng thùy đỉnh phía trên (parietal lobe), vùng thùy chẩm phía sau (occipital lobe) và vùng thùy thái dương (temporal lobe). Đại não cũng được chia ra làm hai phần bán cầu não hoạt động tương ứng với nhau.
- Phần phía giữa là trung não điều hành những hoạt động cảm quan và các tuyến nội tiết,
- Phần dưới là tiểu não điều khiển các cử động và bản năng.
Não là bộ phận tiêu thụ năng lượng nhiều nhất, xử dụng 20% khí oxy và các chất dinh dưỡng trong cơ thể, trong khi trọng lượng chỉ chiếm 2% của toàn thân.
Não được cấu tạo với khoảng 100 tỉ tế bào thần kinh (neurons). Trung bình mỗi tế bào thần kinh nhận khoảng 5000 nối kết từ các tế bào thần kinh khác qua các điểm nối kết gọi là synapses.
Khi có nối kết, tế bào thần kinh nhận được một tín hiệu, thường là sự bùng phát của một loạt chất hóa học truyền đến, gọi là chất truyền thần kinh (neurotransmitters). Mỗi tín hiệu là một chút tin tức truyền đi, và tế bào thần kinh sẽ tùy vào sự phối hợp của các tín hiệu nhận được mà “bắn” đi những tín hiệu đến các tế bào thần kinh khác, có thể ví như những đèn xanh đèn đỏ điều khiển giao thông, để điều hợp những phản ứng cảm thọ đối với bên ngoài, làm thành nhiều mạng nối kết.
Khi một mạng nối kết được tạo ra, ký ức được ghi lại, tạo thêm tế bào thần kinh mới được tạo thêm, cùng với sự điều tiết của một số chất hóa học – tạo nên những trạng thái thường xuyên hay không thường xuyên trong tâm thức.
Những điểm nối kết (synapse) nào thường được dùng đến sẽ trở nên mạnh mẽ và kiên cố, trong khi nếu không được dùng đến lại sẽ yếu đi và tự hủy. Đó là tính chất mềm dẻo của não (neuroplasticity).
- Các vùng chức năng của não bộ có liên hệ nhiều đến cảm xúc và tâm lý
Các vùng chức năng của não có liên hệ đến những hoạt động tâm thức nhiều nhất là những vùng sau:
- Vùng vỏ não trước trán (Prefrontal Cortex hay PFC) đặt mục tiêu, kế hoạch, điều hành những hoạt động, kiềm chế những cảm xúc qua sự kiểm soát các dữ kiện chuyển tới từ hệ thống thần kinh vòng viền (limbic system).
- Vùng vòng cung vỏ não trước (Anterior frontal cingulate cortex ACC) điều hành sự chú ý, tập trung tư tưởng, theo dõi những kế hoạch, giúp hợp nhất tư tưởng và cảm giác.
- Thùy đảo (Insula) ở phía trong khuất sau vùng thuỳ thái dương (temporal lobe), có thể cảm nhận được tình trạng nội tại của cơ thể, gồm cả những cảm tính trực giác, làm phát khởi tình thương và sự đồng cảm với người khác.
- Đồi thị (Thalamus): trạm chuyển tiếp của những thông tin cảm giác.
- Cuống não (brain stem): truyền đi những hóa chất thần kinh như serotonin và dopamine đến não bộ.
- Thể trong suốt (corpus callosum) truyền những tin tức giữa hai bên bán não.
- Tiểu não (cerebellum) điều hợp các cử động
- Hệ thống thần kinh vòng viền (limbic system): ở nơi vùng thuỳ thái dương (Temporal Lobe), được coi như thuộc trung não, là trung tâm chức năng của cảm xúc và các động cơ cho hành động, là tập hợp gồm nhóm hạt nhân bên trong đồi não (basal ganglia) nơi phát xuất những động cơ tìm kiếm phần thưởng và lợi lộc; chân hải mã (hippocampus) tạo ký ức mới và khám phá những đe dọa; hạch hạnh nhân (amygdale) chốt báo động những tình thế đe dọa và phát ra những cảm thọ tiêu cực; đồi não dưới (hạ đồi- hypothalamus) điều hành những cảm giác bản năng như đói khát v.v.., kích thích tuyến yên (pituitary gland) tiết ra những chất endorphine, stress hormones và oxytocin … ảnh hưởng lên trạng thái tâm sinh lý.
- Vai trò của các chất hóa học truyền thần kinh
Lạc thú hay đau khổ không phải là một khái niệm hay điều gì trừu tượng, mà còn được biểu hiện nơi thân qua sự điều tiết của một số hóa chất truyền thần kinh. Hai hóa chất truyền thần kinh đứng đầu là:
- Glutamate kích thích sự tiếp nhận cảm giác, – và GABA cản trở sự tiếp nhận.
Những hóa chất khác có tác động trên não bộ là:
- Serotonin điều hòa tính khí, giúp tiêu hóa và dễ ngủ, thường được dùng trong những thuốc chống trầm cảm;
- Dopamine cho những cảm giác dễ chịu, thích được thưởng và kích thích sự tìm kiếm phần thưởng.
- Norepinephrine tạo sự cảnh giác và tỉnh táo;
- Opioid là chất làm giảm stress, xoa dịu những đau đớn và gợi những cảm giác khoái lạc, trong đó có endorphin.
- Oxytocin kích thích tình yêu thương và nuôi dưỡng những liên hệ tình cảm giữa người lớn và trẻ con, giữa nam và nữ.
- Cortisol được điều tiết để phản ứng với tình trạng bị áp lực (stress), kích thích hạch hạnh nhân (amygdale) và cản trở hoạt động của chân hải mã (hippocampus).
- Diễn tiến căn bản phản ứng cảm thọ trong não
Khi mắt nhìn thấy một đối tượng lạ, vùng vỏ não thùy chẩm (occipital cortex) ghi nhận hình ảnh, ngay lập tức chuyển đến hai vùng khác là chân hải mã (hippocampus) để đánh giá dựa trên những ký ức mới lưu trữ ngắn hạn, và vùng vỏ não trước trán (prefrontal cortex) để phân tích sâu hơn với những ký ức cũ lưu trữ dài hạn. Chân hải mã sẽ báo động hạch hạnh nhân (amygdale) nếu thấy hình ảnh này có tính cách đe dọa, và hạch hạnh nhân sẽ hoạt động như cái chuông báo động cho toàn thể hệ thống thần kinh não bộ và hệ thống hormones. Trong khi đó, vùng vỏ não trước trán làm việc chậm hơn khi phân tích hình ảnh nhận được với các ký ức cũ lưu trữ dài hạn sẽ đưa ra quyết định cuối cùng là có nên phản ứng (hoặc ứng chiến hoặc chạy trốn) hay không. Diễn tiến này bắt đầu từ thời tiền sử, khi con người phải đối mặt trước những đe dọa cho sự sống của mình từng giây từng phút, và vẫn còn lưu lại đến ngày nay.
- Vai trò Hệ thần kinh giao cảm (symphathetic nervous system SNS) và hệ thần kinh đối giao cảm (parasymphathetic nervous system PNS)
Trong thân chúng ta có hệ thống thần kinh tự động (autonomous nervous system) với phần lớn những hoạt động dưới tầng ý thức (below level of consciousness) để điều hành các hệ thống bộ phận trong cơ thể và các phản ứng đối với những điều kiện thay đổi.
Hệ thống thần kinh tự động gồm 3 nhánh, trong đó:
- Hệ thần kinh giao cảm (SNS),
- Hệ thần kinh đối giao cảm (PNS), và
- Hệ thần kinh tiêu hóa – dạ dầy và ruột (enteric nervous system).
Tuy có vị trí ở cột tủy sống, nhưng hệ thần kinh giao cảm (SNS) hoạt động tương quan chặt chẽ với hạch hạnh nhân (amygdale) và chân hải mã (hippocampus) trên não.
Khi gặp phải áp lực trong cuộc sống (stress), hệ thần kinh giao cảm (SNS) được kích thích, tạo sự báo động qua hạch hạnh nhân, kích thích đồi thị (thalamus) liên hệ đến cuống não tiết ra chất norepinephrine tạo sự cảnh giác trong não. Đồng thời, các bộ phận quan trọng trong thân và các nhóm bắp thịt cũng được gởi tín hiệu để sẵn sàng đối phó. Đồi não dưới (hypothalamus) kích thích tuyến yên (pituitary gland) gây ra sự điều tiết những chất “stress hormones” như epinephrine (adrenaline) và cortisol. Những chất stress hormones này làm một số bộ phận tạm thời ngưng hoạt động như chân hải mã, tuyến nước bọt để dồn hết năng lượng vào việc đối phó với tình thế. Sự hoạt động của hệ thần kinh giao cảm làm tăng sự năng động, giúp con người thêm hăng hái và có sức mạnh để đối phó với những trường hợp khẩn cấp, nhưng nếu kéo dài, sự hoạt động của hạch hạnh nhân khiến tạo ra những cảm xúc tiêu cực như sợ hãi và giận dữ, có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác như hệ thống tim mạch và tiêu hóa, gây ra những tổn hại tâm và sinh lý.
Đối nghịch với hệ thần kinh giao cảm (SNS), hệ thần kinh đối giao cảm (PNS) bảo tồn năng lượng trong cơ thể, giữ cho cơ thể được thăng bằng, ổn định, cho cảm giác thư giãn, dễ chịu, yên bình, trạng thái an nghỉ bình thường của thân, tâm và não.
Hai hệ thần kinh này hoạt động so le với nhau, khi một hệ thống được kích thích, hệ thống kia sẽ chìm xuống. Trong cuộc sống, phải có sự cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm. Tuy nhiên, khi ít phải đối phó với những đe dọa bản thân, chúng ta nên giảm bớt sự hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và tăng thêm sự kích thích đối với hệ thần kinh đối giao cảm để có được sự an bình, thoải mái nơi tâm và thân.
Như vậy sự hỗ tương giữa THÂN và TÂM chủ yếu hiện hành trên bộ não, điển hình là các loại sóng não với những tầng số thay đổi tùy theo trạng thái tâm khác nhau và chỉ ra lưu lượng hoạt động của neuron trong não qua khảo sát với điện não đồ:
- Sóng DELTA (dưới 4Hz) có độ dài nhất và xảy ra phần lớn trong giấc ngủ sâu.
- Sóng THETA (5-8 Hz) thấy nhiều nơi trẻ em và người lớn buồn ngủ, thường là lúc đi vào giấc ngủ.
- Sóng ALPHA (8-12 Hz) là trạng thái tâm thư giản, không khởi niệm.
- Sóng BETA (12-30 Hz) có tầm hoạt động nhanh và thấp và mang đặc tính của tâm bận rộn.
- Sóng GAMMA (30-100 Hz) có tần số cao nhất và được cho là tiêu biểu cho sự đồng bộ của các vùng não khác nhau vì thực hiện một vài chức năng nhận biết hoặc vận động.
Điều quan trọng là nhận rõ bộ não không bao giờ sản sinh chỉ một thứ trong các loại sóng não này; các sóng não xảy ra cùng lúc, nhưng cấp số sẽ thay đổi tùy theo trạng thái tâm.
Sóng não gamma này có biên độ (amplitude) rất cao (vài chục µv) và kéo dài, đặc biệt tại vùng trán – đỉnh bên (fronto-pariétal latéral). Điểm quan trọng là loại dao động gamma rõ rệt hơn trên những người hành thiền nhiều kinh nghiệm so với nhóm mới tập thiền.
Tuy rằng nguồn gốc chính xác của những sóng não gamma này vẫn chưa được rõ, nhưng những dao động này (gọi là dao động 40 Hz) trong những điều kiện bình thường tri giác thường được xem như là một sự đồng bộ hóa (synchronisation) hoạt động nhóm nơ ron (gọi là hội tụ tạm thời nơ ron) đưa tới một sự tri giác trọn vẹn và có ý thức.
Thiền định là một hoạt động tâm thức có ý thức, với đặc điểm là những dao động gamma đồng bộ làm cho tiếng động ồn ào thường có trong não tạm ngừng. Khả năng chung của các vị thiền sư là đưa não tới một trạng thái bén nhạy tối đa và tiêu thụ năng lượng tối thiểu (đến tận mức độ 0) trong một thời gian ngắn.
Giả thiết “năng lượng không” có nghĩa là trạng thái năng lượng thấp tương ứng với một trạng thái “vô ngã”, trong khi trạng thái năng lượng bình thường tương ứng với một trạng thái “có cái ngã” thực nghiệm. Nhưng tuyệt nhiên không có vùng nào có thể gọi là «ngã» (ego, self), không có một trung tâm nào trong não có thể gọi là trung tâm của «ngã».
Trong thí nghiệm khảo sát não bộ với dao động bên ngoài trong thời thiền tập, vị tăng sĩ áp dụng hai phương pháp thiền: tập trung vào một vật [định] và tỉnh thức [huệ]. Theo đó, phương pháp tỉnh thức hữu hiệu hơn.
Như vậy, sự tập trung chú ý dường như làm cho thiền giả ít bị dao động hơn bởi các kích thích bên ngoài, và gây nên một trạng thái cảm xúc bình thản (équanimité émotionnelle).
Khi tọa thiền vào định thì vùng suy nghĩ, vùng ý thức và những cơ chế phụ thuộc phát ra ý ngôn hay tâm ngôn, thuộc vùng tiền trán, đều yên lặng. Trái lại, khi đó, vùng nhận thức biết không lời, vùng tánh thấy, tánh nghe hay tánh xúc chạm, phía sau bán cầu não trái hoạt động.
Về thời gian, từ hình ảnh trên võng mạc đi tới vỏ não nhìn, rồi tới khi nhận thức ra hình ảnh là gì, thì đã có mấy trăm ms trôi qua. Ý thức về sự vật không còn là sự vật. Héraclite đã từng nói: «Người ta không bao giờ tắm hai lần ở một dòng sông».
PHƯƠNG PHÁP TU TẬP
Kinh nghiệm sống cho thấy chúng ta bị THÂN chi phối nhiều (bệnh.đau…) và hậu quả là TÂM khổ.
Kinh Phật cho biết sau khi chết TÂM (thức.nghiệp. công phu tu tập….) theo chúng ta trong 49 ngày và qua kiếp sau. Từ đó chúng ta có thể nhận định trong sự tu không phải chỉ trong hiện đời mà nhiều đời nhiều kiếp, và cứu cánh là thành Phật (như câu Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành) nên tu TÂM.
Về pháp tu:
- Lý thuyết: Chuyển hóa cái nhìn và thái độ sống nhấn mạnh về TÂM.
- Thực hành: Bắt đầu từ THÂN (thư giản, hít thở, yoga, tai-chi. Từ tốn, chậm rãi trong mọi việc. Nói ít đi. Mỗi lần làm một việc, không làm nhiều việc cùng một lúc….. rồi qua TÂM, chủ yếu là (THÂN) tọa (TÂM) thiền.
Có nhiều cách giúp chúng ta tu tập dù trong sinh hoạt đời thường hay ngồi trên bồ-đoàn.
1. CÁCH ĐỂ LÀM MÌNH MẠNH HƠN
- Tốt nhất là mở mắt, bởi vì bạn phải mạnh trong những tình huống hằng ngày khi đang mở mắt.
- Tốt nhất là mở mắt, bởi vì bạn phải mạnh trong những tình huống hằng ngày khi đang mở mắt.
- Hít thở sâu và quay về chính mình. Rõ biết niệm tưởng khởi lên mà không cần dính vào. Cảm nhận sức mạnh tỉnh giác, luôn sáng và bền, bất kể việc gì đang xảy ra.
- Vì bạn sinh hoạt trọn ngày, hãy chú tâm vào ý nghĩ mình đang mạnh. Ghi nhận rằng khi mình mạnh thì rất tốt. Hãy để sức mạnh chìm ngấm vào sinh mạng mình.
2. PHÁT TRIỂN TÌNH THƯƠNG và LÒNG TỪ BI
Bộ phận kích thích sự chú ý trong não là vùng vỏ não trước trán (prefrontal cortex) và vùng vòng cung vỏ não trước (anterior cingulated cortex) – bày tỏ sự chú ý sẽ làm cho đối tượng dễ dàng tiếp nhận sự đồng cảm. Bộ phận kích thích sự đồng cảm trong não là thùy đảo (insula). “Muốn hiểu được tâm người, trước hết phải hiểu tâm mình.” Khi quay về quán chiếu chính mình, theo dõi hơi thở, cảm xúc đi qua, thùy đảo sẽ được kích thích, khai mở cảm tính trực giác cho ta có thể cảm nhận những cảm xúc nội tại của người khác.
Hệ thần kinh đối giao cảm có thể được kích thích qua nhiều cách:
- Tập thư giãn: Tập thư giãn bằng cách chú ý đến một phần nào đó trong cơ thể, cảm thấy sự căng thẳng trong đó và cho nó thư giãn.
- Tập hít thở: tập thở qua hoành cách mô. Để tay lên bụng, tập thở sâu cho tay chuyển động lên xuống.
- Tập tọa thiền, chú ý đến hơi thở và giữ sự tỉnh giác đối với những gì đến và đi trong tâm.
Tư thế ngồi thiền thẳng lưng sẽ kích thích nhóm dây thần kinh trong cuống não, đưa lại tỉnh táo và ý thức.
Tọa thiền trong sự tập trung nhất quán sẽ cho cảm giác an bình, hỷ lạc qua sự điều tiết đều đặn chất dopamine trong não.
Toạ thiền làm tăng trưởng các vùng chất xám trong não, khiến vùng vỏ não không bị mòn đi theo tuổi tác, làm tăng sự chú ý, phát triển tình thương, thông cảm, làm giảm chất cortisol gây ra do stress, tăng cường hệ thống miễn nhiễm, cải thiện tình trạng bệnh lý về tim, hen suyễn, tiểu đường, đau đớn kinh niên, cải thiện tình trạng tâm lý như mất ngủ, lo lắng, sợ hãi v.v..
3. THIỀN CHÚ TÂM
Tìm một chỗ thoải mái bạn có thể tập trung và không bị làm phiền. Thiền tập trong khi đứng, đi, hay nằm đều được, nhưng phần lớn người ta thường thiền tập trong khi ngồi trên ghế hay trên gối.
Tìm một thế ngồi vừa thư giãn vừa tỉnh táo, xương sống thẳng đúng độ. Như trong nhà thiền nói, bạn nên giữ tâm mình như người kỵ mã giỏi, cầm cương không căng quá cũng không chùng quá.
- Hít thở sâu và thư giản, nhắm mắt hay mở 1.3. Rõ biết những âm thanh đến và đi, và để yên như chúng đang là. Biết là giờ này mình đang ngồi thiền. Bạn có thể buông xuống hết những gì khác không dính dáng đến trong thời gian này, như thể bỏ một gánh nặng xuống trước khi thả mình ngồi vào một chiếc ghế êm ái.
- Rõ biết niệm tưởng và cảm giác, mơ ước và dự án, hình ảnh và kỷ niệm – mọi thứ đến và đi. Hãy để yên như chúng đang là; đừng dính vào, đừng chống cự hoặc chạy theo. Hãy chấp nhận – thậm chí trải lòng từ — với tất cả những gì đi qua không gian mở ngỏ cho tỉnh giác.
4. BUÔNG XẢ
Buông xả là tâm quân bình toàn hảo và không lay động.
-Nyanaponika Thera
Dòng mạch của bộ não trước đây lôi kéo bạn phản ứng theo kiểu này hay kiểu khác, bây giờ buông xả là cầu dao điện, cắt đứt dòng mạch phiền não bằng cách tách rời cường độ cảm giác của kinh nghiệm khỏi guồng máy tham ái, hóa giải phản ứng đối với cảm giác này. Đây cũng là trạng thái đạt được qua những làn sóng dao động gamma biểu lộ sự đồng bộ hóa (synchronize) cả tỉ tế bào thần kinh qua những vùng não rộng lớn.
Không Gian Vận Hành Toàn Diện của Tâm Thức
Một khía cạnh khác của buông xả là không gian của tâm thức vận hành toàn diện (Baars 1997).
Đó là phần não bộ bổ túc ý nghĩa tâm linh vào cái rỗng rang tỉnh giác bao quanh sự vật. Điều này chỉ có thể xảy ra bằng trạng thái ổn định và tiến đến sự cộng hưởng sóng GAMMA của hàng tỷ tế bào não băng qua những vùng rộng lớn của bộ não, phản kích lẫn nhau một cách nhịp nhàng 30-80 lần mỗi giây. Thật thú vị, vì đó là sóng não mẫu mực phát hiện nơi chư tăng Tây Tạng trong hàng loạt thiền tập – và hàng loạt tâm xả.
TRIỂN KHAI CÁC YẾU TỐ CỦA TÂM XẢ
- Buông xả không phải là trạng thái thông thường cho cả tâm lẫn não, ý nghĩa căn bản việc này có thể chứng nghiệm trong đời sống thường ngày và phát triển với sự tu tập. Những yếu tố thuộc não hệ chúng tôi đưa ra sẽ gợi ý một số phương pháp đẩy mạnh tiến trình này.
- Buông xả có nghĩa không chống lại phản ứng của bạn, dù như thế nào.
- Buông xả tạo ra vùng đệm chung quanh mức độ cảm nhận kinh nghiệm sao cho bạn không phản ứng lại với lòng tham ái. Buông xả giống như cầu dao ngắt điện sẽ khóa cứng chuỗi hành niệm (hành uẩn) thông thường trong tâm chuyển biến từ mức độ cảm nhận đến ái, thủ rồi khổ.
- Buông xả không phải lãnh đạm, vô tình, hoặc thờ ơ. Bạn hiện diện trong thế giới này nhưng không bị nó làm điên đảo. Rỗng rang của tâm xả là trụ đỡ lớn lao cho lòng từ, bi và hỷ vì hạnh phúc mọi người.
- Trong sinh hoạt hằng ngày và thời tọa thiền, hãy đào sâu hạnh xả bằng cách gia tăng chú tâm vào mức độ cảm nhận những kinh nghiệm và càng ngày càng xua tan ảo tưởng của chúng. Chúng đến và đi, chẳng đáng để chạy theo hay chống cự lại.
- Hãy thư giản. Để ra vài phút để ổn định tâm bạn bằng cách tập trung vào cảm nhận hơi thở nơi bụng và ngực, hoặc chung quanh vành môi.
- Cảm giác một sự vô tư khách quan lớn mạnh về bất cứ điều gì xảy ra, một sự thanh thản, một sự có mặt thư thái và không bận bịu hay lo âu. Chấp nhận và bình yên với mọi việc xảy đến. Hãy để tâm càng lúc càng ổn cố, thinh lặng và trấn tĩnh.
- Rõ biết âm thanh. Lắng nghe mà không dính vào đối tượng bị nghe. Rõ biết cảm giác. Hãy cảm nhận mà không vướng vào vật bị cảm nhận. Rõ biết niệm tưởng, suy nghĩ mà không kẹt vào nghĩ tưởng.
- Ghi nhận mức độ cảm thọ lạc, khổ và bất lạc bất khổ (trung tính) đến và đi. Cảm thọ thường xuyên biến đổi, và không phải là nền tảng tùy duyên của an lạc.
- Rõ biết niệm tưởng qua lại và cảm thọ mà không đặt tên. Không ai cần phải sở hữu chúng.
- Rõ biết niệm tưởng qua lại và cảm thọ mà không phản ứng lại.
- Hãy nghỉ ngơi, tỉnh giác, thoát khỏi mọi phản ứng.
Tâm Xả có những yếu tố sau:
- Sự tỉnh giác rỗng rang. Mọi sự đều được nhận biết trong một nền tảng ý thức bao la, không lặng. Đây cũng là trạng thái đạt được qua những làn sóng dao động gamma biểu lộ sự đồng bộ hóa (synchronize) cả tỉ tế bào thần kinh qua những vùng rộng lớn của não.
- Tâm Xả cũng có nghĩa là một tâm bất động trước tất cả những gì có thể gây sóng gió trong tâm – đạo Phật gọi là bát phong, tức là tám ngọn gió của vui.khổ, khen. chê, được.mất, tiếng tốt.tiếng xấu.
- Sự yên bình, vững chãi nơi tâm – có thể được gợi nên do thiền định và sự hoạt động của hệ thần kinh đối giao cảm (parasympathetic nervous system PNS), làm giảm đi những phản ứng cảm tính do hệ thần kinh vòng viền (limbic system) và hệ thần kinh giao cảm (sympathetic nervous system SNS) tạo nên.
Sự chú ý đều đặn vào một việc sẽ kích thích vùng vỏ não để hỗ trợ sự làm việc của ký ức – lúc đó, một cánh cửa vô hình sẽ ngăn chận không cho những tin tức khác lọt vào. Nhưng khi có một kích thích mới, cánh cửa vô hình sẽ mở ra để đón nhận tin tức mới, và đóng lại để ngăn chận những tin tức khác.
Nếu ký ức làm việc trong sự chú ý được kích thích vừa phải, chất dopamine sẽ được tiết ra đều đặn, giữ cho cánh cửa đóng lại. Nhưng nếu sự kích thích bị phai nhòa, chất dopamine giảm xuống, sẽ khiến cánh cửa mở ra và những tin tức mới sẽ tràn vào.
Bán cầu trái và phải có sự tương giao kiềm chế hỗ tương, khi phần này khởi động thì phần kia bị loại trừ; do đó, khi kích động bán cầu phải bằng cách dấn thân vào sinh hoạt đặc thù, trung tâm ngôn ngữ của bán cầu trái sẽ im tiếng.
Vùng bán cầu phải với vùng nhận biết hình tượng (visual.spatial) có nhiệm vụ lớn hơn để cho ta cảm nhận trạng thái của thân, như thế sự thấy biết về thân sẽ giúp làm giảm đi những khởi động nói năng bên bán cầu trái. Ngoài lợi lạc làm im tiếng tâm nói năng, sự tỉnh giác toàn thân sẽ hỗ trợ cho nhất tâm. Đây là trạng thái thiền định.
5. NHẤT TÂM
Nhất tâm gồm hiệp nhất sức tỉnh giác trong sự đắm mình sâu thẳm vào đối tượng chú tâm. Niệm tưởng tối thiểu và tâm rất kiên định. Bạn cảm thấy hiện hữu tròn đầy, với trạng thái xả tăng trưởng.
Trạng thái này chắc là phải liên hệ với tần số cao của sóng não GAMMA thấy được nơi thiền giả lão luyện. Khi càng vào sâu trong thiền, hoạt động của sóng GAMMA càng mạnh và càng lan rộng, điều này được xem là ẩn sau sự chứng nghiệm cái rỗng rang lớn mạnh và tỉnh giác kiên cố.
Nhất tâm có khuynh hướng:
- Đẩy mạnh bạn vào cái hiện tiền như đang là.
- Buông bỏ quá khứ, vị lai; ngay lúc này, trong thời thiền này, xua tan lo âu, toan tính, hoặc mơ tưởng.
- Nuôi dưỡng cái hiện tiền liên tục.
- Thả lỏng ý niệm về bản ngã.
6. NỀN TẢNG CHÚ TÂM
Tạo Lập Ý Định
Dùng sức mạnh của tiền vỏ não trước trán (Prefrontal cortex – PFC) để tạo lập ý định cố chú tâm hơn nữa. Nền tảng hiểu biết và ý định đều từ vùng vỏ não trước trán. Ý định muốn đạt chú tâm không hẳn là khởi từ vùng vòng cung vỏ não trước (ACC) trên trục thần kinh.
- Tạo ra ý định cố chú tâm ngay từ đầu mọi hoạt động cần tập trung. Phải âm thầm nhớ kỹ sự quyết tâm.
- Phải luôn lặp lại ý định của mình. Ví dụ, khi bạn ở trong một cuộc họp, mỗi phút giây bạn đều có thể tái lập sự tập trung cho mình. Một người bạn của tôi thường dùng một cái máy nhỏ rung lên ở từ xa; anh ta để trong túi áo và máy sẽ thầm rung lên đánh thức anh ta mỗi 10 phút.
- Cố ý chú tâm vào cách sống thiếu sót của mình bằng cách triển khai thói quen chú tâm trong sinh hoạt thường ngày.
Hỗ Trợ Pháp Chú Tâm Thường Ngày
- Chậm lại.
- Bớt nói.
- Ngay khi có thể, ráng mỗi lần chỉ làm một việc trước mắt. Cố đừng làm nhiều việc một lúc.
- Thư giản trong sự cảm nhận mình hiện hữu lặng lẽ giữa muôn người.
- Xử dụng những biến động thông thường – tiếng chuông điện thoại, đi vệ sinh, hoặc uống nước – như “tiếng chuông chùa” gọi ta trở về sự tập trung chú tâm.
- Trong bữa ăn, hãy quán tưởng thức ăn từ đâu đến, công của mình nhiếu hay ít… (ngũ quán)
- Đơn giản hóa đời sống của mình, buông bỏ thú vui thấp hèn để có hạnh phúc cao thượng.
- Quán sát dòng tâm-niệm mà không bị lôi kéo vào.
- Xem phim mà không nhảy vào màn ảnh.
- An định trong thời khắc hiện tiền. Buông hết quá khứ và xả bỏ vị lai. Đón nhận mỗi thời điểm hiện tiền mà không cố liên kết thời điểm này với thời điểm kế tiếp.
- An trú trong hiện tại, không gợi nhớ cũng không toan tính. Không căng thẳng cũng không tìm cầu.
- Không một vật để được, không một việc để làm, không điều gì để thành.
Nguồn Internet