Kinh này lấy Tín, Nguyện, Trì danh làm tông. Tại sao gọi là Trì danh? -Trì danh chính là trì niệmdanh hiệu của Phật A Di Đà, cũng giống như hạt thanh châu bỏ vào nước đục, thì nước đục sẽ trong ngay. Niệm danh hiệu Phật cũng giống như hạt thanh châu bỏ vào nước đục nước sẽ lóng trong ngay vậy. Chúng sanhvọng tưởnglăng xăng không biết là bao nhiêu, không lúc nào ngừng nghỉ, giống như sóng trào ở biển cả không lúc nào dừng. Khi Phật hiệu vào trong tâm loạn thì tâm loạn cũng trở thànhtâm Phật. Vì niệm một tiếng Phật, trong tâm sẽ có một niệm Phật. Bạn niệm Phật, Phật cũng niệm bạn, cũng như cùng đem danh hiệuA Di Đà Phật đánh vào một vô tuyến điện báo, đó kêu là “cảm ứng đạo giao.” Bạn không niệm Phật, thì Phật sẽ không thâu nhận được, cho nên cần phảiTrì danh.
Trì danhniệm Phật là một pháp môn rất trọng yếu trong thời Mạt pháp, cho nên có rất nhiều người niệm Phật. Nhưng chớ nên xem thuờng pháp môn niệm Phật này. Ngài Vĩnh Minh ThọThiền sư khi niệm một tiếng Phật, lúc ấy người có ngũ nhãnlục thông, thấy từ miệng Ngài hiện ra một hóa Phật, cho nên công đứcniệm Phậtthật không thể nghĩ bàn. Hơn nữa, khi bạn niệm Phật, trên đầu sẽ phát ra ánh sáng. Một khi ánh sáng phát ra thì yêu ma quỷ quái sẽ co giò chạy xa. Cho nên công đứcniệm Phật thật là không thể nghĩ bàn. Đó là Trì danhniệm Phật.
Trì tức là Chí trì, giữ lại, cũng chính là thọ trì, cũng chính là như trong sách Trung Dung nói: “Toàn quyền phục ưng.” Tâm niệm niệm ghi nhớ. Trì danh hiệu nào? Trì danh hiệu A Di Đà Phật, tức là niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
1. Quán tưởng niệm Phật: Chính là quán tưởngtoàn thân sắc vàng của Phật A Di Đàtướng hảoquang minh không sánh ví, toàn thân của Phật A Di Đà phóng ra ánh sáng sắc vàng. Tướng hảo là thành tựu công đứcviên mãn, đầy đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng của Ngài không sánh ví. Xem thấy tướng sáng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà to lớn xoay quanh như năm hòn núi Tu Di. Mắt của Ngài to như bốn biển lớn, cho nên quý vị làm sao thấy được thân to lớn của Phật A Di Đà?
– trong ánh sáng của Phật A Di Đàhóa hiện ra rất nhiều Phật. Chẳng những hóa ra hình tượng của Phật mà còn hóa hiện ra hình tượng của Bồ-tát nữa. Phật A Di Đà có bốn mươi tám lời nguyệncứu độ tất cả chúng sanh khiến cho đều lên chín phẩm sen vàng được giải thoát.
Chín phẩm có Thượng phẩm, Thượng trung phẩm, Thượng hạ phẩm, Trung thượng phẩm, Trung trung phẩm, Trung hạ phẩm, Hạ thượng phẩm, Hạ trung phẩm, Hạ hạ phẩm. Hoa sen ở mỗi phẩm lại chia làm chín phẩm, thành ra 9 x 9=81 phẩm. Có được tám mươi mốt phẩm, tất cả chúng sanh sẽ đến bờ bên kia, tức là Niết-bàn.
2. Quán tượng niệm Phật: Đó là cúng dường một tôn tượng Phật A Di Đà. Niệm Phật cách này chính là quán nhìn tượng PhậtA Di Đà, càng lâu càng kỹ mới được thành công.
3. Thật tướngniệm Phật: Chính là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Bạn muốn không niệm cũng không được. Nó giống như giòng nước, tự mình ở trong đó thì niệm ra Phật; niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, miên miên mật mật, đạt đếncảnh giới ấy chính là Niệm Phật Tam-muội, cũng chính là thật tướngniệm Phật.
4. Trì danhniệm Phật: Tức là chuyên niệm PhậtA Di Đà, mở miệng ngậm miệng, đi, đứng đều niệm A Di Đà. Niệm cần phải niệm cho rõ ràng, lỗ tai phải nghe cho rõ ràng, tâm cũng phải nhớ cho rõ ràng; ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh niệm Phật, tâm khôngvọng tưởng. Miệng không có bốn nghiệp ác: Mắng chửi, nói thêm, nói láo, nói đâm thọc. Thân không có ba nghiệp ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. ý không tham, sân, si. Đó là dùng ba nghiệpthanh tịnh để niệm Phật. Thân, khẩu, ý thanh tịnh mà niệm Phật thì niệm niệmthanh tịnh, niệm niệm Phật như vậy.
Tâm thanh nước hiện trăng ý tịnh trời sạch mây.
Niệm cho đến được niệm Phật Tam-muội, nghe thấy gió thổi cũng là Nam mô A Di Đà Phật, nghe tiếng mưa rơi cũng là Nam mô A Di Đà Phật, nghe mọi thứ âm thanh cũng đều là tiếng niệm Phật, đó là “Nước chảy, gió rung, diễn Ma-ha”; tiếng nước chảy, tiếng gió rung đều là Nam mô A Di Đà Phật cả. Vì thế Tô Đông Pha có câu:
Tiếng khe đều là lưỡi rộng dài Màu núi khắp cùng tâm thanh tịnh.
Âm thanhtrong trẻo, nước khe róc rách đều phát xuất từ tướng lưỡi rộng dài (quảng trường thiệt), đó là “vô tình thuyết pháp.” Núi non cùng màu sắc đều là thanh tịnh thân. Đó là: “Non xanh, mây trắng, hoa vàng, trúc biếc” đều là pháp thân biến hiện. Đây chính là được niệm Phật Tam-muội vậy. Niệm không gián đoạn nghĩa là suốt ngày từ sáng đến chiều đều là niệm Phật, niệm A Di Đà.
Trước đây tôi có viết một bài kệ:
Niệm Phật niệm hoài không gián đoạn Hồng danh đồng khởi tại tâm can Tạp niệm không sanh Tam-muội được Vãng sanh Tịnh độ có phần sang Trọn ngày chán nản Ta Bà khổ Tâm niệmhồng trần dứt sạch quang Cầu sanh Cực Lạc luôn trong ý Nhiễm niệm dứt trừ, Tịnh niệm toàn
Đây là tu tậppháp môn niệm Phật, Tam-muội thì chắc chắn có hy vọngvãng sanhTây phương Cực Lạc. Đã dứt hết lòng trần của thế gian, không còn có tâm dâm dục, cũng không có tâm tranh danh đoạt lợi, tất cả tâm duyên bên ngoài thế giới này đều buông bỏ hết, xem tất cả đều là giả dối, buông bỏnhiễm tâmquay vềTịnh độ, bài kệ này chính là thuyết minhđạo lýniệm Phật đấy. Trì danhniệm Phật giống như là cầm một vật gì, phải luôn cầm chắc trong tay mới được. Cho nên mỗi ngày đều phải niệm “Nam mô A Di Đà Phật” để xua đuổi những tạp niệm của chính mình. Niệm Phật là pháp môn lấy độc trị độc, vọng tưởng là một thứ độc, trì danhniệm Phật cũng là một thứ vọng tưởng. Đó là lấy vọng tưởng để ngăn vọng tưởng, cũng giống như trong quốc gia dùng binh lính để ngăn binh lính, dùng chiến tranh để dứt chiến tranh. Nếu muốn diệt hết vọng tưởng thì phải thường niệm Phật. Khi vọng tưởng diệt hết thì sẽ đạt đượcniệm Phật Tam-muội. Đây là lớp thứ ba “Trì danh làm tông” trong năm lớp huyền nghĩa.