Bí Kíp Thiền TôngSách Thiền TôngTinh hoa Đạo Phật

Quyển 10: Huyền ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông

✍️ Mục lục: Quyển 10: Huyền Ký của Đức Phật

BAN QUẢN TRỊ CHÙA THIỀN THÔNG TÂN DIỆU

Xin nói gọn Lời dạy của Đức Phật có 4 Phần:

👉Phần một:

Người tu theo Đạo Phật nếu sử dụng Thân và Tâm duyên hợp của vật lý dụng công tu hành thì có Chứng và Đắc, theo luân chuyển của vật lý Điện từ Âm – Dương; vì có Chứng và Đắc nên phải giữ lấy không Giải Thoát được gồm có 5 Pháp môn: gồm Thiền Quán của Phái Tiểu Thừa, có 37 Pháp Quán trợ Đạo.

👉Phần hai:

Người Tu theo Đạo Phật chỉ cần biết Công thức để tu tập dần dần sẽ nhận ra Tánh Phật của mình; biết tạo ra Công đức nữa thì trở về Phật Giới mới được.

👉Phần ba:

Tập Huyền Ký này truyền theo dòng Thiền Tông nên được xếp vào hàng Tuyệt mật của Phật Giáo. Vì sao đươc xếp hàng Tuyệt mật như vậy.

Xin Kính thưa: Vì Phát môn Thiền Tông học này là Pháp môn cực Dương, tức cực mạnh, nó phá đi tất cả mê lầm của con người là: Cầu, Xin, Lạy lục người khác.

Vì vậy Đức Phật mới nhờ ông Ma Ha Ca Diếp truyền theo dòng Thiền Tông để khi loài người văn minh lên thật cao; Pháp môn Thiền Tông học này mới được phổ biến ra.

Phần này Đức Phật có dạy trong Tập Huyền Ký, trong Kinh Diệu pháp Liên hoa nơi Phẩm 12, Long Nữ thành Phật, tức người nữ ở Đất Rồng nhận được Tập Huyền Ký này sau đó các Đệ tử của Bà mới cho phổ biến ra.

Vì phần Tuyệt mật này các nơi tu theo 5 Pháp môn của Đức Phật dạy dụng công tu hành có Chứng – Đắc trong vật lý không biết được. 5 Pháp môn tu hành thành tựu trong vật lý là:

1. Dụng công tu hành Quán, Tưởng, Cầu, Mong mà Đức Phật gọi là Nguyên Thủy hay Nam Truyền, cũng gọi là Tiểu Thừa.

2. Học hỏi Lý luận cho hay Đức Phật gọi là Trung thừa, các Đệ tử của Đức Phật gọi là Triết lý Phật Thích Ca.

3. Dụng công đi tìm hay kiếm để biết được vật nhỏ nhất hay mênh mông trong Càn Khôn Vũ Trụ, Đức Phật gọi là Đại Thừa các Thày sau gọi là Phát triển.

4. Niệm Phật để thấy hình bóng của Đức Phật A Di Đà mà Đức Phật gọi là Pháp môn Tịnh Độ Tông.

5. Niệm Chú để sai khiến vật chất và Điện từ Âm – Dương mà Đức Phật gọi là Pháp môn Mật Chú Tông.

Vì 5 Pháp môn tu hành nói trên, ai dụng công tu hành niêm mật thì có kết quả theo sự ham muốn của mình; cho nên hiệ nay từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam ai cũng thích tu hành 5 Pháp môn nói trên; có ai hỏi những người dụng công tu hành này Giác Ngộ là gì? họ không trả lời được; Giải Thoát để đi về đâu họ cũng không biết đâu mà trả lời.

Vì sao dụng công tu hành đã Chứng – Đắc mà không trả lời được? Chúng tôi xin trình bày 3 nguyên nhân như sau: Trong 12 Bộ Kinh Đại Thừa Đức Phật đã dạy rất rõ, chúng tôi chỉ đem 3 quyển Kinh Đại Thừa sau đây trình bày cho Quý vị tự nhiên Quí vị sẽ biết:

1. Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Đức Phật dạy rất rõ về Tánh Phật là Thấy – Nghe – Nói và Biết  cũng như các phần khác.

2. Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Đức Phật dạy rõ Phật Tánh của mọi người không chịu nhận mà đi cầu xin và lạy người khác.

3. Bộ Kinh Kim Cang: Đức Phật dạy phá bỏ tất cả Chứng – Đắc người dụng công tu hành bằng 2 câu:

Người dụng công tu hành mà thấy bất cứ hình tướng gì đều là hư dối. Người tu theo Đạo của Ta mà nhìn hình Ta, cầu lạy Ta người đó hành Đạo Tà.

Sau cùng Đức Phật khẳng định bằng câu: Suốt 49 năm ta chưa hề nói 1 lời hay một câu nào về Phật Tánh cả.

Tất cả những người tu theo Đạo Phật ai cũng biết; rõ ràng các câu dạy của Đức Phật nói trên nhưng không chịu nghe theo lời dạy của Ngài, mà lại làm theo lời dạy của Ma Vương.

👉Phần bốn:

Đức Phật dạy về Luân hồi: Con người đóng vai chính về Giải Thoát và Giải Thoát cũng như Luân hồi; nhưng chúng ta tu theo Đạo của Ngài, Ngài dạy chúng ta không chịu nghe mà lại nghe lời của Ma Vương dạy.

Chúng tôi đưa ra lời dạy cụ thể của Đức Phật như sau:

1. Đức Phật dạy ai cũng có Phật Tánh mà không chịu nhận Phật Tánh của chính mình, sống với Phật Tánh ấy mà đi cầu khẩn, lạy lục người khác ban Phật Tánh cho mình. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Như Lai dạy rất rõ về ba anh chàng ngốc:

 Anh chàng cùng tử: Anh chàng ta đã giàu có mà đi làm thuê, hốt phân cho người khác để là giàu, nếu xét về ngu anh này thật là đại ngu.

Anh chàng có hạt châu trong chéo áo: Anh chàng này trong chéo áo của anh ta đã có hạt châu quý, tức anh ta rất giàu mà không biết, ngày đêm, sáng tối cứ cắm đầu lạy người khác đổ Phước vào đầu mình, Nếu xét về ngốc anh này được xếp vào đại ngốc.

Anh chàng  trong búi tóc có hạt châu: Anh chàng này tỏng búi tóc anh đã có hạt châu, tự anh đã giàu có, anh không nhận mình là người giàu có, cứ lang thang sứ này lê chân đến sứ kia, cầu xin người khác cho lộc mình để anh ta được giàu. Nếu xét về khờ anh này được xếp vào đại khờ.

Dẫn chứng con Người là Trung tâm Luân hồi, Đức Phật  dẫn chứng và dạy như sau:

Tánh của con Người có 16 thứ, chính 16 thứ này mà nó dẫn con Người đi trong 6 nẻo Luân hồi và một con đường vào làm Thực vật:

1. Thọ: Con Người có cái Thọ nên nghe ai nói gì cũng Thọ nhận mà không cần biết nó đúng hay sai; đem chứa vào trong Tàng thức của Tánh Người rồi đi dạy lại cho người khác.

2. Tưởng: Con Người có cái Tưởng, cũng vì cái Tưởng này mà nó Tưởng tượng ra đủ chuyện trên đời, cũng để đi dạy người khác; như Tưởng mình cầu xin và lạy ai đó để giúp mình Giải Thoát; Tưởng mình cầu xin ai đó để ban Phước và Lộc cho mình; Tưởng mình nương tựa ai đó để người này cứ khổ mình…

3. Hành: Con Người có cái Hành nhờ cái Hành này mà làm theo cái Tưởng của chính mình, nhưng cái dở của con Người là không biết cái nào là Chân thậtn nên Hành đại.

4. Tham: Con Người có cái Tham nên nghe ai nói đúng cái lòng Tham của mình là nghe và làm theo; dù có dâng hết tài sản của mình vẫn không màng.

5. Sợ: Con Người có cái Sợ cũng vì cái Sợ này mà ai hù cũng Sợ.

5 Phần nói trên là căn bản dẫn con người đi Luân hồi nơi Trái Đất này trong một Tam Giới cũng như làm Thực vật không ngày cùng.

Việc làm duy nhất của Đức Phật là muốn cho lòng Người biết hai Phần:

Một là: Giúp loài Người thấu hiểu sự sống nơi Trái Đất này, cũng như trong một Tam Giới và danh từ chuyên môn của Đức Phật dạy gọi là Giác Ngộ.

Hai là: Giúp cho loài Người biết Công thức vượt ra ngoài sức hút vật lý Điện từ Âm – Dương nơi Trái Đất này, danh từ chuyên môn có hai cách gọi:

1. Giải Thoát tức tức vẫy vùng để vượt ra ngoài cuốn hút Âm – Dương.

2. Trở về Bể Tánh Thanh Tịnh là nơi 10 Phương Chư Phật sống.

Thế mà trong suốt 45 năm dạy Đạo của Đức Phật chỉ giúp được có 15 người:

1. Ông Kiều Trần Như.

2. Ông Kiều Trần Na.

3. Ông Kiều Trần Thi.

4. Ông  Kiều Trần Nhi.

5. Ông Kiều Trần Nga.

6. Ông  Ma Nam.

7. Ông Át Bệ.

8. Ông Thực Lực.

9. Ông Mã Hiền.

10. Ông Ma Ha Ca Diếp.

11. Ông Duy Ma Cật.

12. Ông A Nan Đà.

13. Ông Thân Thệ Chí Phương.

14. Ông Phát Trường Mạnh Quân.

15. Bà Lam Thi Phương Vũ.

Và cũng có nhiều người hiểu rõ những gì mà Đức Phật dạy trong Tập Huyền Ký này.

45 năm dài đằng đẵng như vậy mà chỉ có 15 người đạt được “Bí mật Thanh Tịnh Thiền” và một số hiểu căn bản về Pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền, Đức Phật gọi là “Giác Ngộ yếu chỉ Thanh Tịnh Thiền”.

Vì chỗ cự kỳ khó đó nên Đức Phật mới nhờ ông A Nan Đà và 14 vị nữa biên chép Tập Huyền Ký này để truyền cho các thế hệ sau.

Đức Phật có dạy: Tập Huyền Ký này phải đợi đến thời Mạt Thượng Pháp trở đi, khi loài Người đã hiểu về Khoa học về Trái Đất này trong một Tam Giới và Càn Khôn  Vũ Trụ thì họ mới chấp nhận lời của Như Lai dạy trong Tập Huyền Ký này là đúng với sự thật.

Vì vậy Đức Phật mới nhờ ông Ma Ha Ca Diếp truyền theo dòng Thiền Thanh Tịnh để đến đời Mạt Thượng Pháp trở đi loài Người mới chấp nhận tu tập.

Đức Phật có dạy ẩn ý trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:

Khi nào “Long Nữ thành Phật,” thì Tập Huyền Ký này phải xin Chính quyền cho phép công bố ra cho nhiều người cùng biết. Khi được phép công bố ra, thì người nắm Tập Huyền Ký phải cẩn thận hoặc không lưu lại dấu vết.

Vì sao vậy? Vì loài người tin tuyệt đối vào vị Thánh nào đó lập ra Càn Khôn Vũ Trụ, cũng như ban Phước giáng họa cho loài người, nên họ rất sợ, không tin những gì mà trong tập Huyền Ký này viết ra.

Tập Huyền Ký này, Đức Phật không giấu giếm một điều gì. Đồng nghĩa, Ngài nói sự thật nơi Thế Giới này rõ ràng và thuận lý, nên phá đi tất cả những mê tối của loài người.

Đức Phật cũng có dạy rõ:

Khi tập Huyền Ký này chỉ vừa hé mở ra thôi, thì có vô số người chống đối.

Vì sao? Vì người chống đối này họ bị mất quyền lợi, nên bất cứ giá nào họ cũng phải ngăn cản cho bằng được.

Ở Trái Đất này có 2 dạng người:

1. Người đụng đâu tin đó chiếm rất cao.
2. Người khôn lanh thì cũng quá nhiều.

Những người khôn lanh họ thấy người khờ nhiều quá, nên họ tìm đủ cách dạy người khờ này bằng cách là:

– Cầu xin người nào đó, giúp họ Giải Thoát.
– Lạy lục người nào đó, họ cho Phước.

Đức Phật nhìn thấy chỗ sai lầm này, nên có nói cho họ biết, nhưng Như Lai vừa mở miệng ra là nhiều người chửi. Những người chửi này, trong đó có những đệ tử lớn của Ngài nữa.

Tình thế như vậy, Đức Phật không biết nói sao, nên Như Lai dạy ra Kinh Diệu Pháp Liên Hoa để nói chỗ ngu khờ của con người.

Điển hình có 3 trường hợp:

Một là, anh chàng cùng tử:

Đức Phật dạy anh chàng này, anh ta là người giàu có mà không biết tận hưởng sự giàu có của mình, mà lại đi làm thuê là hốt phân cho người khác để kiếm tiền nuôi thân qua ngày.

Hai là, anh chàng có hạt châu trong chéo áo:

Đức Phật bảo, trong túi áo của anh ta có hạt châu rất quý, mà không biết đem ra sử dụng để giàu như bao nhiêu người khác. Anh khờ đến nổi ngày đêm đi cầu và lạy người khác cho anh giàu có.

Ba là, anh chàng có hạt châu trong búi tóc:

Anh chàng này được Vua ban thưởng cho hạt châu mà không biết đem ra hưởng vinh hoa phú quý, mà ngày đêm đi tìm chỗ này đi kiếm chỗ kia, đào móc chỗ này, moi chỗ kia để tìm hạt châu đem về nhà.

Cả 3 anh chàng nói trên quá khờ, Đức Phật không biết nói gì hơn, nên Ngài đành nói ra kinh Diệu Pháp Liên Hoa để dạy mấy anh này.

Bộ kinh này được xếp vào hàng Tối thượng thừa của Đức Phật dạy.

Thế mà, con người không ai thực hành, mà cứ đem ra tụng cho tượng ciment, tượng gỗ nghe. Đức Phật thấy vậy, không biết dạy lời gì nữa, nên Ngài đành bỏ đi, mặc tình mấy anh này làm gì mặc kệ.

Đức Phật dạy rõ:

 Sở dĩ con người không chịu từ bỏ mê lầm của mình, là do Qui luật Nhân – Quả nơi Thế Giới này như sau:

1. Đời trước, mình lường gạt người khác, đời này mình phải trả.
2. Đời trước, mình hại người khác, đời này mình phải trả.
3. Đời này, mình thề làm con hay làm tôi tớ ai đó, thì mình phải giữ lời.

Đức Phật dạy về Quy luật nơi Trái Đất này có hai Phần:

Phần một: Tánh của con người là nguyên nhân chính dẫn đi Luân hồi trong 6 nẻo.

Phần hai: Tánh của loài Thần chỉ làm hai việc:

Một là: làm ra những hiện tượng lạ để cho loài người thích.

Hai là: gìn giữ những lời thế do con người thề thốt với nhau một điều gì đó.

Vì vậy ở Trái Đất này ai đã thề rồi mà không giữ lời thì loài Thần sẽ xử ngay; còn ai phản lại lời thề của mình tự mình trút họa vào thân vì vậy các Đền, Miếu mọc lên để loài người đến đó thề thốt với nhau nhưng vì loài người hiểu sai nên đến các nơi này cầu xin và lạy.

Còn con người dụng công tu hành có Chứng có Đắc rồi cũng không dám từ bỏ Chứng – Đắc của mình bởi vậy khi Đức Phật dạy Pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền là không dụng công, không Chứng – Đắc mọi người cho Đức Phật bị ma ám.

Đức Phật có dạy rõ thời của Đức Phật đang sống Trái Đất này vừa ổn dịnh được 7 triệu năm sau một thời gian dài bị loài người sử dụng phản ứng hóa học của vật chất tiêu diệt sự sống trên Trái Đất này gần hết.

Khi Đức Phật dạy Pháp môn Giải Thoát gọi là Thời kỳ Thượng Pháp được phân chia như sau:

1. Thượng Pháp: từ 0 – 1.000 năm.

2. Trung Pháp: từ 1.000 – 2.000 năm.

3. Hạ Pháp: từ 2.000 – 2.500 năm.

Rồi chuyển qua thời Mạt Pháp, thòi kỳ này được phân chia 5 Phần:

1. Mạt Thượng Pháp: từ 2.500 – 2.600 năm

2. Mạt Trung Pháp: từ 2.600 – 2.700 năm

3. Mạt Hạ Pháp: từ 2.700 – 2.800 năm

4. Mạt Mạt Pháp: từ 2.800 – 2.900 năm

5. Hạ Màn Pháp: từ 2.900 – 3.000 năm.

Sự sống trên Trái Đất này bị tiêu diệt gần hết gồm có 4 nguyên nhân sau:

1. Bị loài Người đánh nhau rồi tiêu diệt nhau.

2. Bị nhiễm khí độc do loài người tạo ra.

3. Bị thiên tai bão lụt, cũng do con người thử vũ khí, làm Trái Đất chấn động nên làm lệch vòng quay Hoàng Đạo, nên thời tiết không còn tự nhiên.

4. Động đất vì con người rút tài nguyên dưới lòng đất quá nhiều.

Chu kỳ của Trái Đất này cứ 10 ngàn năm là “bị bệnh” một lần, là do loài người gây ra.

Sau 7.000 năm mới bình phục lại.

Trái Đất này phải “bị bệnh” như vậy 1 triệu lần như vậy thì mới hoàn toàn tan rã thành bụi không gian.

Như vậy tuổi thọ của mỗi Trái Đất trong Tam Giới này là 10 tỷ năm.

Khi Trái Đất Nam Diên Phù Đề này bị tan rã; Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương mới cho ra một Hành tinh khác để thế chỗ cho Trái Đất Nam Diên Phù Đề như sau:

1. Đầu tiên: Ban bệ trời Tứ Thiên Vương: Điều khiển Hành tinh lửa.

– Cho chui qua  Lỗ đen Vũ trụ.

– Đưa vào Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Để Hành tinh lửa này quay theo sự cuốn hút cỉa Điện từ Âm – Dương

– Khi nào Hành tinh lửa này quay đạt chuẩn; thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

2. Điều khiển hành tinh đất chịu nhiệt.

– Chui vào lỗ đen Vũ trụ.

– Cho vào Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Phủ bao Hành tinh Lửa lại.

– Khi đạt chuẩn cách nhiệt; thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

3. Điều khiển Hành tinh đất và các loại Cát.

– Chui vào Lỗ đen Vũ trụ.

– Cho vào Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Rải đều trên mặt Hành tinh chịu nhiệt này.

– Để làm sự sống cho muôn loài về sau.

– Khi đạt chuẩn; thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

4. Điều khiển Hành tinh Nước và Muối.

– Chui vào Lỗ đen Vũ trụ.

– Cho vào Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Rải đều trên mặt Hành tinh này.

– Khi đạt chuẩn; thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

5. Điều khiển Hành tinh Không khí.

– Chui vào Lỗ đen Vũ trụ.

– Cho vào Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Bao phủ Hành tinh này.

– Để trở thành Hành tinh Đất – Nước – Gió – Lửa và Điện từ Âm – Dương.

– Khi Hành tinh Tứ Đại và Điện từ Âm – Dương này đạt chuẩn rồi; thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương: 

6. Điều khiển Hành tinh này ra ngoài Trung tâm sản xuất Hành tinh.

– Đưa vào vòng  Hoàng Đạo I của Hệ Mặt trời.

– Để chịu sức hút Âm – Dương và thời tiết của Tam Giới

– Khi thời tiết đạt chuẩn, mưa đúng mùa, tứ thời tiết đạt chuẩn sự sống; 

 Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

– Quan sát trong bụi không gian có mảnh bụi nào thực vật còn sống,liền điều mảnh bụi đó vào Hành tinh này.

– Khi nào bề mặt Trái Đất này thời tiết ổn định, bốn mùa rõ rệt, sự sống thực vật sinh sôi nảy nở được.

 Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương:

– Canh chừng các Hành tinh Tứ Đại và Điện từ Âm – Dương xung quanh, xem Hành tinh nào sắp bị loài Người hủy diệt sự sống, mà có người muốn chạy thoát khỏi Hành tinh này;

Thì Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương điều khiển Điện từ Âm phụ giúp hút các phi thuyền và số người này đến Hành tinh mới này sinh sống,  để làm Thủy tổ loài Người.

Tuổi thọ của mỗi Hành tinh là 10 tỷ năm, nhưng tỏng 10 tỷ năm này nó bị loài người tranh giành hơn thua sát hại lẫn nhau; khi loài Người bị tiêu diệt gần hết Hành tinh “mang bệnh”.

Loài người cứ hủy diệt nhau 1 triệu lần, sau cùng Hành tinh mới bị tan rã thành bụi không gian.

Đức Phật lại dạy rõ:

Khi Địa cầu này bị loài người hủy diệt sự sống gần hết.

Đồng nghĩa Nhân – Quả Luân hồi bị chậm lại; nên những Trung Ấm Thân ở thời kỳ này bị khốn khổ vô cùng.

Còn khi Địa cầu bị tan rã ra Trung Ấm Thân phải di chuyển sang các Hành tinh có sự sống khác ở tạm; đợi khi nào Hành tinh này hình thành trở lại thì mới trở về sống.

Các ông biết rồi không có nhà để ở, mà sang ở tạm nơi khác thì khổ sở còn gấp mấy nghìn lần.

Đây là Quy luật của Thế Giới này vậy.

Như Lai biết và thấy rõ như vậy nên dạy Pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền để giúp loài Người thoát ra ngoài Luân hồi để trở về Phật Giới, không còn bị Sinh – Lão – Bệnh – Tử nữa.

Như Lai dạy Công thức này nhưng không ai chịu nghe mà nói  Như Lai dạy Tà Đạo.

Như Lai cũng cho các ông và hậu thế biết:

Khi loài Người bắt đầu sống vào thời kỳ Mạt Thượng Pháp trí khôn loài Người rát Thông minh, chai ra làm 3 nhóm:

Nhóm một: Sản xuất vật chất cung phụng cho loài Người rất dồi dào.

Nhóm hai: Sản xuất khí cụ để giết người hàng loạt.

Nhóm ba: Sản xuất dụng cụ và thuốc cứu người rất dễ.

Vì loài Người sử dụng cái Tham, Tưởng và Ác nên sanh ra tranh giành chém giết với nhau, ai cũng muốn mình là cao hết. 

Vì vậy loài Người chạy đua khí cụ lên đỉnh cao rồi tự tiêu diệt nhau.

Nhờ trí khôn của loài Người lên cao nên Tập Huyền Ký này đến lúc phải công bố ra cho loài người hiểu. Nhờ vậy mà cường độ loài Người tranh giành và chém giết lẫn nhau được kìm hãm bớt, nên Trái Đất này được kéo dài tuổi thọ đến thời Mạt Hạ Pháp hay thêm nữa.

Cũng nhờ trí khôn của loài Người lên cao nên mới được người có trí khôn chấp nhận tu tập.

Người nào chịu tu tập Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này trở về Phật Giới sẽ tránh được hai thứ:

Một là Sinh – Tử Luân hồi.

Hai là tránh được thảm họa khủng khiếp mà loài Người gây ra.

Nhưng cũng không có bao nhiêu người biết mà thực hành. Vì sao? vì có đến 3 nguyên nhân:

Một là loài Người tạo Nghiệp quá nặng không dám lại gần Pháp môn này thì làm sao biết àm tu tập.

Hai là loài Người dính chặt vào vật chất quá nhiều, thì làm sao rời bỏ vật chất được.

Ba là một số lớn loài Người có lời thề với ai đó chưa được phá bỏ thì làm sao  lại gần Pháp môn Giải Thoát này.

Khi Tập Huyền Ký được công bố ra, đồng nghĩa Pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền được trưng bày ra ánh sáng; người nào muốn Giải Thoát ra khỏi cuốn hút của Nhân – Quả Luân hồi, thì chỉ cần có một niệm nhỏ như sau:

Tôi muốn Giả thoát ra khỏi Trần gian này.

Sẽ có một vị Phật biết phân thân đến người này, hướng dẫn người này tìm đến nơi có Quyển Huyền Ký của Như Lai truyền cho Hậu thế.

Nhờ vậy:

Giác Ngộ được thông.

Giải Thoát được biết rõ ràng

Như Lai nhắc lại:

Khi nào Long Nữ nhận được Tập Huyền Ký này, cũng là lúc Pháp môn Thiền Tông bắt đầu chuyển mình chảy lại. Khi Minh Triết ngự trị “Đất Rồng” thì Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này mới có nơi an trụ.

Nhờ có noi an trụ chính thức, nên Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này mới được âm thầm len lỏi trong Đại chúng, sau đó được bùng lên.

Vì sao vậy? Vì khi Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này được phổ biến bằng các ngôn ngữ khác nhau, cũng là lúc loài Người tranh giành danh lợi với nhau lên đỉnh cao, cũng là lúc Trái Đất này hủy diệt gần hết sự sống theo chu kỳ của nó.

Như Lai cũng dạy cho các ông rõ thêm:

Người chịu trách nhiệm phổ biến Tập Huyền Ký này xin phép, công bố ra không phải dễ. Vì sao? vì có rất nhiều nguyên do:

Nguyên do thứ nhất: Tập Huyền Ký này nói lên tất cả sự thật nơi Thế Giới này.

Nguyên do thứ hai: Phá đi mê tín dị đoan.

Nguyên do thứ ba: Trước nay loài Người hoàn toàn cầu xin và lạy người khác. Hôm nay Tập Huyền Ký này được công bố ra, ai cũng biết muốn Giải Thoát là tự mình thức hiện, thì có rất nhiều người bị mất quyền lợi; cũng vì vậy mà nhiều người ngăn cản.

Đức Phật dạy thêm:

Tập Huyền Ký này lần đầu công bố ra rất được thuận lợi.

Vì sao được như vậy? vì vị Vua ở nước này đạt được “Bí mật Thanh Tịnh Thiền” nên nhà Vua hiểu rất rõ về Pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền này.

Cho nên khi Tổ Thiền Tông xin phép phổ biến ra vị Vua chấp nhận ngay và cử Quan phục trách về Văn hóa và Tôn Giáo Quốc gia, cũng như các Quan Địa phương đến dự Lễ Công bố.

Còn khi Tập Huyền Ký xin công bố lần 2 cũng là lần cuối cùng, bị vô vàn trở ngại. Vì sao:

Vì khi Tập Huyền Ký này xin công bố lần 2, loài Người đã văn minh đã lên rất cao, vật chất dồi dào, nên ai cũng sống về vật chất, nên Tập Huyền Ký này khó công bố được ra.

Đức Phật lại dạy rõ thêm:

Con Người ai cũng sống với Chấp – Ngã của mình, nên bất cứ ai nói ngoài sự hiểu biết của họ, là họ phản bác ngay.

Vì vậy vào thời Mạt Thượng Pháp người nào nắm được Tập Huyền Ký này phải thật thận trọng.

Khi Tập Huyền Ký này được công bố ra thì loài Người được 4 cái lợi rất lớn:

Một là: Mê tín được giảm 50%.

Hai là: Dị đoan hoàn toàn được xóa sạch.

Ba là: Đường Giác Ngộ được phơi bày ra.

Bốn là: Đường Giải Thoát đươc mở của rõ ràng.

Có được một cái lợi lớn nhất của con Người là ai cũng là Người Trí thức cao vậy./.

Video (Trích đoạn)

✍️ Mục lục: Quyển 10: Huyền Ký của Đức Phật 👉  Xem tiếp

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *