Lời tiên tri Núi Andes
✍️ Mục lục: Lời tiên tri Núi Andes – Mặc Khải thứ 10
Chương 6: Thức tỉnh
Khi mở mắt ra, tôi thấy mình đang ở một nơi tràn ngập ánh sáng xanh; cảm giác thanh thản và an bình. Gần bên trái tôi là Wil và như những lần trước đây, Wil có vẻ nhẹ nhõm và rất hài lòng được gặp lại tôi. Anh bước đến gần tôi và nói nhỏ:
– Cậu sẽ rất yêu thích nơi này.
Tôi hỏi:
– Chúng ta đang ở đâu?
– Hãy quan sát kỹ hơn đi.
Tôi lắc đầu:
– Trước hết, tôi cần phải nói với anh. Chúng ta cần phải khám phá ra nơi đang tiến hành những thí nghiệm đó và chặn đứng họ. Họ đã phá huỷ một ngọn đồi. Chỉ có trời đất mới biết được lần tới họ sẽ phá huỷ cái gì.
Wil hỏi:
– Cậu sẽ làm gì nếu chúng ta phát hiện nơi của họ?
– Tôi không biết nữa.
– Tôi cũng thế. Hãy kể tôi nghe những cuộc phiêu lưu của cậu.
Tôi nhắm mắt, định tâm, rồi kể cho Wil nghe về cuộc gặp lần thứ hai của tôi với Maya và lý do khiến bà không chịu tin mình là thành viên của nhóm bảy người.
Wil gật đầu, không bình luận gì.
Tôi nói tiếp, mô tả cuộc gặp của tôi với Curtis, những thông điệp nhận được từ Williams và vụ nổ do thí nghiệm gây ra.
Wil hỏi:
– Williams đã nói với cậu ư?
– Không thật sự là vậy. Cuộc trò chuyện của tôi với Williams không rõ ràng như giữa tôi và anh. Một cách nào đó, ông ấy đã gợi lên những ý tưởng, và chúng xuất hiện trong tâm trí tôi. Một mặt, tôi có cảm tưởng rằng mình đã biết những thông tin đó nhưng, mặt khác, tôi đã gặp lại điều mà ông ấy truyền đạt cho tôi. Điều lạ lùng là tôi cảm thấy sự hiện diện của ông ấy.
– Ông ấy muốn cho cậu biết điều gì?
– Ông ấy đã xác nhận điều mà anh và tôi cùng Maya trông thấy:
chúng ta không những có thể nhớ đến những Tầm Nhìn Khai Sinh của mình, mà còn có quan điểm rộng lớn hơn về mục tiêu của nhân loại, và về sự đóng góp của chúng ta cho mục tiêu đó. Hẳn là, khi nhớ đến những thông tin này, chúng ta đưa vào Trái Đất một năng lượng gia tăng, và năng lượng gia tăng có thể chấm dứt sự sợ hãi… và những thí nghiệm.
Ông ấy đã gọi điều đó là Thế Giới Quan.
Wil lặng im.
Tôi hỏi:
– Anh nghĩ sao?
– Tất cả đều có trong những lời hướng dẫn của mặc khải thứ mười.
Cậu hãy nghe tôi. Tôi biết cậu nôn nóng muốn can thiệp. Nhưng, chỉ có một phương cách hữu hiệu: Chúng ta phải tiếp tục thăm dò Cõi Bên Kia, để thấy Tầm Nhìn rộng hơn điều mà Williams đã cố truyền đạt cho chúng ta. Hẳn phải có một phương pháp chính xác để hồi ức.
Ở xa xa, tôi nhận thấy một chuyển động, có khoảng tám hoặc mười người, không rõ nét, xuất hiện và dừng lại cách chúng tôi khoảng mười lăm mét. Phía sau họ là hàng chục người khác, tạo thành một khối lộn xộn màu hổ phách. Tất cả họ đều toát ra một cảm xúc, một nỗi niềm mà tôi cảm thấy thân quen.
Mỉm cười, Wil hỏi tôi:
– Cậu có nhận ra họ không?
Tôi nhìn về nhóm linh hồn, và ngay tức khắc cảm thấy thân thuộc với họ. Trong khi tôi nhìn họ, mối quan hệ tình cảm trở nên càng lúc càng rõ rệt, vượt quá những gì mà tôi từng cảm thấy. Tuy nhiên, đối với tôi, tình cảm thân thuộc đó có vẻ không mới, bởi tôi đã từng đến nơi này.
Nhóm linh hồn tiến thêm vài mét, và cảm giác sảng khoái của tôi càng gia tăng. Tôi thích thú buông thả trong cảm giác đó, chỉ muốn được đắm chìm trong đó.
– Có thể đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hạnh phúc trong đời. Những làn sóng của cảm xúc tri ân đổ xuống trong tôi.
Wil hỏi tôi:
– Cậu đã tìm thấy?
Tôi quay đầu nhìn anh:
– Đó có phải là nhóm linh hồn của tôi?
Ngay sau đó, tâm trí tôi ngập tràn những kỷ niệm. Tôi đang ở trong sân của một tu viện thế kỷ 19. Nhiều tu sĩ bao quanh tôi; chúng tôi cười nói và cảm thấy rất thân thiết. Sau đó, tôi đi một mình trên một con đường nằm giữa hai hàng cây. Có hai người ăn mặc rách rưới – hai nhà tu khổ hạnh – nhờ tôi giúp họ gìn giữ một kiến thức bí ẩn.
Chợt bồn chồn lo sợ, tôi xua đi thị kiến đó và nhìn Wil. Tôi thầm nghĩ, mình sẽ thấy gì nữa đây? Tôi cố định tâm, và nhóm linh hồn của tôi tiến thêm một mét nữa
Tôi hỏi Wil:
– Điều gì đang xảy ra? Tôi chẳng hiểu rõ.
Tôi mô tả cho Wil về điều tôi vừa thấy.
Anh khuyên tôi:
– Hãy tiếp tục, đừng bỏ qua.
Hai nhà tu khổ hạnh lại xuất hiện và, ngay tức khắc tôi biết họ thuộc một tu hội bí mật thuộc dòng Francis tu hội những người Tâm linh bị rút phép thông công sau khi Giáo hoàng Celestine từ nhiệm.
Tôi hỏi Wil:
– Vị Giáo hoàng đó là ai?
– Đó là Celestine V, đã điều hành Giáo hội vào cuối thế kỷ 13. Những phế tích tại Peru, nơi người ta đã tìm thấy mặc khải thứ chín, đã được mang tên Ngài, khi người ta phát hiện chúng trong thế kỷ 17.
– ‘Những người Tâm linh’ đó là ai?
– Họ là một nhóm nhỏ tu sĩ tin rằng có thể đạt đến một mức độ Tâm linh cao hơn khi xa lánh xã hội loài người để sống đời suy niệm trong thiên nhiên. Giáo hoàng Celestine đã ủng hộ những thuyết của họ, và bản thân ngài cũng đã sống trong một hang động một thời gian khá dài. Dĩ nhiên ngài đã bị phế truất, và sau đó ‘những người Tâm linh’ đã bị kết án là những người theo thuyết Ngộ đạo và bị tuyệt thông. Những kỷ niệm khác trở về với tôi. Hai thầy tu khổ hạnh đó xin tôi giúp họ, và tôi đã miễn cưỡng theo họ vào khu rừng. Sở dĩ tôi cảm thấy miễn cưỡng, không tự nhiên, là vì ánh mắt của họ biểu lộ một sự xuất thần mang tính thần bí và họ có vẻ như chẳng sợ hãi điều gì. Họ nói với tôi rằng có những tư liệu có nguy cơ bị mai một. Thế là, tôi đành phải nhận chúng, và lén lút đưa chúng vào tu viện của tôi. Tôi đọc chúng dưới ánh nến, sau khi đã khoá cửa phòng.
Đó là những Bản Sách Cổ chép bằng tay bằng tiếng Latin, ghi lại chín mặc khải, và tôi nhận chép lại chúng trước khi quá muộn. Tôi dành mọi thời gian rảnh rỗi để cẩn thận sao chép chúng thành hàng chục bản. Đến một lúc, những mặc khải đó thu hút tôi đến nỗi tôi phải tìm cách thuyết phục những thầy tu khố hạnh đó công bố chúng.
Họ không chấp nhận điều đó và tỏ ra rất kiên định: họ đã gửi những tư liệu đó từ nhiều thế kỷ và chờ đợi Giáo hội đủ chín chắn để hiểu chúng.
Khi tôi yêu cầu họ giải thích chi tiết hơn, họ nói rằng những mặc khải sẽ vẫn được giữ kín đến khi nào mà Giáo hội còn không chấp nhận điều mà họ gọi là Vấn Nạn Ngộ Đạo.
Những người theo thuyết Ngộ đạo là nhóm những người Kitô giáo đầu tiên; họ tin rằng những tín đồ của một Thượng Đế duy nhất không chỉ phải tôn thờ Đức Ki tô, mà còn phải nỗ lực noi gương Ngài trong tinh thần Lễ Hiện Xuống. Họ cố mô tả nỗ lực đó bằng những thuật ngữ triết học, như một phương pháp dẫn đến thực hành. Khi Giáo hội bắt đầu hình thành những nguyên lý thần học đầu tiên, thì những người theo thuyết Ngộ đạo bị xem là những kẻ lạc giáo ngoan cố, không chịu phó thác cho thánh ý của Thiên Chúa, tuy đó là một tín điều. Những nhà lãnh đạo đầu tiên của Giáo hội khẳng định rằng, để trở thành một tín hữu đích thực, ta phải khước từ phân tích, tìm hiểu, và bằng lòng sống qua thiên khải, tuân theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi lúc.
Cáo buộc hàng giáo phẩm đang tự biến thành một thần quyền, các giáo đồ Ngộ đạo cho rằng những ý tưởng và phương pháp của họ giúp người ta phó thác một cách toàn vẹn hơn cho thánh ý Thiên Chúa, như Giáo hội đã nêu. Theo họ thì giới tu sĩ chỉ bảo vệ tư tưởng đó bằng lời nói và các tu hội bí mật.
Khi ấy, tôi chăm chú lắng nghe các nhà tu khổ hạnh, không bình luận gì, nhưng không chia sẻ sự bi quan của họ. Tôi tin rằng tu hội của tôi, dòng Benedictine, quan tâm đến những bản văn đó. Vì thế, tôi kín đáo trao cho bạn tôi, cố vấn thân cận của Hồng y Nicolas, một bản. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được phản ứng. Giám chức không có mặt ở Pháp, nhưng tôi được lệnh phải chấm dứt đề cập đến vấn đề đó và đi ngay về Napoli để báo cáo những phát hiện của tôi cho các bề trên. Tôi cảm thấy sợ, và ngay sau đó phân phát các bản sao cho toàn tu hội với hy vọng có được sự ủng hộ của các tu sĩ quan tâm đến những mặc khải.
Để tranh thủ thời gian và không thi hành ngay lệnh triệu tập, tôi giả vờ bị bong gân, và viết thư giải thích tai nạn của tôi. Như thế, trong khi triển hạn chuyến đi trong nhiều tháng, tôi dành thời gian để sao chép thật nhiều những mặc khải. Cuối cùng, vào một đêm trăng non, người ta phá cửa phòng tôi, đánh đập tôi một cách dã man, bịt mắt tôi và đưa tôi đến lâu đài của lãnh chúa địa phương. Tại đây, tôi bị giam một thời gian dài dưới hầm, trước khi bị xử trảm.
Giờ đây, khi nhớ lại cái chết của mình, tôi cảm thấy quá khiếp sợ đến nỗi mắt cá chân bong gân của tôi lại bắt đầu làm tôi đau nhức. Nhóm linh hồn của tôi tiến đến gần hơn cho đến khi tôi có thể định tâm. Cái gật đầu của Wil cho tôi biết anh đã theo sát toàn bộ câu chuyện của tôi. Tôi hỏi:
– Có phải chứng bong gân ở mắt cá chân của tôi đã bắt đầu từ đó?
– Đúng.
– Anh nghĩ sao về những hồi ức khác của tôi? Anh có biết Vấn Nạn Ngộ Đạo là gì không?
Wil gật đầu. Tôi hỏi:
– Tại sao Giáo hội đã tạo ra vấn nạn như thế?
– Vì Giáo hội của thời kỳ đầu đã sợ hãi công bố rằng đời sống của Đức Kitô là một mẫu mực mà mọi người chúng ta đều có thể noi theo. Do diều đó sẽ mang đến cho các cá nhân quá nhiều sức mạnh, nên Giáo hội muốn duy trì sự mâu thuẫn. Một mặt Giáo hội thôi thúc các tín hữu hãy tìm kiếm Nước Trời ở bên trong chính họ, hãy trực giác các thánh ý Thiên Chúa, và tràn đầy Thánh Thần. Nhưng mặt khác, Giáo hội kết án phạm thượng và không ngần ngại sát hại những ai muốn truyền bá cách thức để đạt đến tình trạng ân sủng đó – sở dĩ như thế là chỉ để phục vụ uy quyền của Giáo hội.
– Vậy, tôi quả là ngu ngốc khi cố phát tán các mặc khải?
Wil trầm ngâm:
– Không, nhưng cậu là một người kém nhạy bén. Cậu đã bị chém đầu do cố áp đặt một ý tưởng trong khi thế giới chưa đủ chín chắn để đón nhận nó.
Tôi nhìn Wil một lúc, rồi lại để bị lôi kéo bởi nhóm linh hồn đang có những thông tin cần truyền cho tôi. Lần này, tôi trở về thế kỷ 19, trong những cuộc chiến chống người Indian. Lúc đó, tôi đang tham dự một buổi họp của những người Indian muốn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, nhưng Maya đã nhân danh hoà bình và thuyết phục được một số trong họ. Tôi im lặng nghe hai phía thảo luận, rồi thấy hầu hết các tộc trưởng đều rời khỏi buổi họp.
Maya đã đến bên tôi và hỏi:
– Anh cũng sắp rời khỏi đây?
Tôi gật đầu và giải thích cho Maya rằng:
– Nếu các thầy pháp không hiểu những ý định của họ, thì làm sao tôi có thể hiểu.
Maya nhìn tôi như thể tôi đang đùa, rồi quay đi để chú ý đến một người khác: Charlène! Tôi bỗng nhiên nhớ rằng cô là một phụ nữ Indian có quyền năng, nhưng do là phái nữ nên cô bị các tộc trưởng xem thường. Cô hình như đang nắm giữ một thông tin quan trọng về vai trò của các tổ tiên, nhưng chẳng ai chịu nghe cô.
Tôi đã muốn ở lại, giúp đỡ Maya, bày tỏ những cảm nghĩ của mình cho Charlène, nhưng rồi tôi đã ra đi. Hồi ức từ vô thức về sai lầm của tôi trong thế kỷ 13 vẫn ám ảnh tâm trí tôi. Tôi chỉ muốn trốn chạy, né tránh mọi trách nhiệm. Sơ đồ của đời tôi đã được định: tôi săn lông thú để bán, cố xoay xở để tồn tại, và không hy sinh mạng sống mình cho bất cứ ai. Có thể lần tới tôi sẽ khá hơn.
Lần tới ư? Tâm trí tôi đi ngược về một thế kỷ, và tôi thấy mình đang nhìn về trái đất, và ngắm kiếp sống hiện nay của tôi. Tôi quan sát Tầm Nhìn Khai Sinh của mình: tôi đã có khả năng chấm dứt sự bất lực, không thể ra tay hành động, của tôi. Thị kiến cho tôi thấy bằng cách nào tôi có thể học được những đức tính của cha mẹ tôi khi tôi còn bé, đạt được sự nhạy bén Tâm linh của mẹ tôi, sự liêm chính và tính khôi hài của cha tôi.
Ông tôi đã khắc sâu trong tôi tình yêu thiên nhiên, chú tôi và cô tôi là một mẫu mực của kỷ luật và thần cảm. Và, trong khi sống giữa những nhân cách mạnh mẽ như thế, tôi nhanh chóng nhận thức rằng mình có xu hướng làm cho những người khác phải nể trọng. Tuy họ đặt nhiều hy vọng ở tôi, tôi vẫn không chịu lắng nghe những thông điệp của họ, tôi né tránh họ. Nhưng sau đó, tôi đã chế ngự những nỗi sợ hãi của mình, và nhận thức về những sức mạnh mà họ dành cho tôi. Tôi sửa đổi khuyết điểm, và tiến theo con đường của tôi.
Sau khi được giáo dục và đào tạo đầy đủ, tôi dành ra thời gian để nghiên cứu những bài giảng Tâm linh mà tôi đã phát hiện trong những thế kỷ trước. Tôi tìm hiểu những luận điểm của minh triết phương Đông, và những văn bản thần bí của phương Tây. Cuối cùng, tôi tái phát hiện những mặc khải vào lúc chúng xuất hiện trở lại để được mọi người thấu triệt. Tất cả những điều vừa kể giúp tôi hiểu rõ hơn bằng cách nào những mặc khải đó sẽ thay đổi xã hội, và khiến tôi gia nhập nhóm của Williams.
Tôi lùi lại. Điều đó khiến thị kiến của tôi biến mất, và tôi nhìn Wil.
Wil hỏi:
– Có điều gì không ổn ư?
Tôi đang ở khá xa lý tưởng của mình. Tôi có cảm tưởng mình đã làm hỏng những khả năng mà môi trường gia đình đã cho tôi. Tôi không thay đổi nổi thái độ của mình hoặc bớt đi sự lạnh nhạt, kênh kiệu, Có quá nhiều sách tôi chưa đọc, quá nhiều người truyền đạt cho tôi những thông điệp, vậy mà tôi không biết họ. Giờ đây, khi nhìn lại, tôi có cảm tưởng đã hỏng tất cả.
Wil suýt bật cười:
– Không ai trong chúng ta răm rắp tuân theo Tầm Nhìn Khai Sinh của mình. Cậu có nhận thức về điều xảy đến với cậu? Cậu muốn nhắc đến con đường mà cậu muốn theo, con đường mang đến cho cậu nhiều mãn nguyện hơn cả. Khi nhìn lại cách thức mà cậu đã sống, cậu cảm thấy hối tiếc, tựa như Williams, sau khi qua đời, đã thấy mọi cơ hội mà ông ta đã bỏ lỡ. Nhưng cậu, cậu có may mắn được Xem Xét Lại Cuộc Đời vào lúc này, khi cậu đang sống!
Thấy tôi có vẻ không hiểu, Wil tiếp:
– Cậu không hiểu ư? Điều đó có liên quan đến lời hướng dẫn cơ bản của mặc khải thứ mười. Trước tiên, chúng ta đã phát hiện rằng những trực giác của chúng ta và quan niệm của chúng ta về định mệnh của mình là xuất phát từ hồi ức về Tầm Nhìn Khai Sinh. Và, càng hiểu biết về mặc khải thứ sáu, chúng ta càng có thể phân tích những quyết định sai lầm của mình, những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ. Như thế, chúng ta có thể ngay tức khắc trở lại với một con đường phù hợp với mục tiêu trên trần gian của chúng ta. Nói khác hơn, chúng ta làm cho tiến trình đó trở nên có ý thức hơn trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trước kia, chúng ta phải chờ khi mình chết mới có thể Xem Xét Lại Cuộc Đời của mình, nhưng giờ đây chúng ta cớ thể đạt được một nhận thức sớm hơn và cuối cùng làm cho cái chết trở nên lỗi thời, như mặc khải thứ chín đã tiên báo.
Cuối cùng, tôi đã hiểu ra:
– Như vậy, con người đến trần gian để hồi ức một cách có hệ thống những mục tiêu của kiếp sống của họ, để dần dần đạt đến giác ngộ?
– Đúng vậy. Chúng ta đang tái phát hiện một quá trình vô thức có từ những buổi đầu của nhân loại. Trước khi xuất hiện trên trái đất, loài người đã cảm nhận được Tầm Nhìn Khai Sinh, nhưng khi chào đời, họ đã mất nó, và chỉ còn giữ được những trực giác mơ hồ. Trong thời kỳ đầu, đã có một khoảng cách lớn lao giữa điều mà chúng ta muốn làm và điều mà chúng ta thực sự thực hiện; sau đó, khoảng cách giảm dần. Giờ đây chúng ta đang ở điểm nhớ lại mọi sự.
Vào lúc đó, tôi lại một lần nữa bị thu hút bởi nhóm linh hồn của tôi cùng những kiến thức mà họ muốn chia sẻ với tôi. Trong một giây, ý thức của tôi hình như đã thực hiện một cú nhảy vọt, và mọi điều Wil đã nói với tôi đều được xác nhận. Kể từ nay, lịch sử không còn là cuộc đấu tranh đẫm máu của loài người, loài đã biết chế ngự thiên nhiên một cách ích kỷ và sống trong những tiện nghi càng lúc càng tăng, loài người đã bắt đầu bằng cuộc sống trong rừng, rồi sau đó tạo ra một văn minh càng lúc càng phức tạp. Lịch sử nhân loại thật sự là một quá trình Tâm linh: qua các thế hệ và các thiên niên kỷ các linh hồn đã, trong những kiếp đời liên tiếp của họ cố chiến đấu vì một mục tiêu duy nhất là nhớ lại điều mà chúng ta đã hiểu biết trong Cõi Bên Kia và đưa sự hiểu biết đó vào trần gian.
Trải rộng quanh tôi là một ảnh chụp giao thoa laser rộng lớn, và qua cái lướt mắt, tôi có thể bao quát câu chuyện dài của lịch sử nhân loại.
Ngay sau đó, tôi bị đẩy vào bên trong hình ảnh đó và thấy mình chìm trong lịch sử, sống lại lịch sử bằng một tốc độ gia tăng, như thể tôi đã thực hiện những thời đại và những trải nghiệm liên tiếp đó.
Mọi sự đã bắt đầu từ buổi bình minh của ý thức. Trước mắt tôi là một cánh đồng rộng lớn, ở một nơi nào đó tại châu Phi. Có một chuyển động khiến tôi chú ý: một nhóm người trần trụi đang hái quả mọng trên một cánh đồng. Trong khi nhìn họ, tôi cảm nhận dược tư duy của con người thời đó. Gắn bó mật thiết với những nhịp diệu và những tín hiệu của thế giới tự nhiên, họ sống và phản ứng theo bản năng, đối mặt với hai bận tâm chính: tìm thấy cái ăn và một vị thế trong bộ lạc. Thứ bậc tôn ti được thiết lập dựa trên sức mạnh và sự thích nghi với môi trường sống cũng như với nhóm; không thắc mắc, mỗi người chấp nhận vai trò của mình cùng những khó khăn và bi kịch của đời sống không ngừng xảy ra. Hàng năm trôi qua và đa số những thế hệ đã sống và đã qua đi. Rồi dần dần, một vài cá nhân bắt đầu phẫn nộ trước một số sự biến cố đều đặn tái diễn. Khi gặp tai hoạ, ý thức của họ phát triển, và họ thắc mắc vì sao tai hoạ đó xảy ra, và làm thế nào họ có thể tránh chúng trong tương lai. Họ bắt đầu có một ý thức về chính họ nhận thức rằng họ đang ở đây, ngay
lúc này, còn sống, Giờ đây, họ có thể thoái lui đôi với những phản ứng bản năng, và thoáng thấy toàn cảnh đời sống. Họ biết rằng đời sống tuân theo nhịp điệu của những chu kỳ của mặt trời, mặt trăng và các mùa, nhưng như những người chết quanh họ đã xác nhận, đời sống cũng có một kết thúc. Vậy, mục tiêu là gì?
Trong khi chăm chú quan sát những cá nhân đang trầm tư, tôi có thể nắm bắt Tầm Nhìn Khai Sinh của họ; họ đã đi vào chiều kích trần gian với mục tiêu đặt biệt là khởi sự cuộc thức tỉnh đầu tiên về đời sống nhân loại.
Và, kể cả khi tôi không thể thấy toàn bộ diễn tiến của nó, tôi vẫn biết rằng họ đã gìn giữ, ở hậu cảnh của tâm trí họ, một thần cảm rộng lớn hơn của Thế Giới Quan. Trước khi chào đời, họ đã biết rằng nhân loại sẽ thực hiện một cuộc hành trình dài mà họ có thể thấy trước. Mỗi tiến bộ trong cuộc hành trình đó sẽ là mục tiêu của một cuộc đấu tranh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng thời với sự thức tỉnh của ý thức chúng ta nhằm hướng đến một định mệnh Tâm linh, chúng ta đã mất sự bình yên và thanh thản của vô thức. Sự hào hứng bởi tự do biết rằng chúng ta đang sống cùng với nỗi sợ hãi về sự không biết chắc.
Lịch sử nhân loại sẽ bị đánh dấu bởi hai khát vọng mâu thuẫn. Một mặt, chúng ta chế ngự được nỗi sợ của mình nhờ vào sức mạnh trực giác, của những hình ảnh trong tâm trí chúng ta: những điều đó chỉ cho chúng ta biết rằng đời sống theo đuổi một mục tiêu riêng, rằng xã hội đang phát triển theo một đường hưởng tích cực mà chỉ có chúng ta, ở cương vị là những cá nhân, có thế tiến theo, bằng cách có những hành động can đảm và khôn ngoan. Sức mạnh của những tình cảm đó nhắc nhở chúng ta rằng, tuy đời sống có vẻ nguy hiểm, nhưng chúng ta không chiến đấu đơn độc: bí ẩn của đời sống che giấu một mục tiêu và một ý nghĩa tiềm tàng.
Tuy nhiên, mặt khác, thường chúng ta sẽ là con mồi của ước muốn trái ngược, đó là né tránh sự sợ hãi, điều khiến chúng ta không còn thấy mục tiêu của đời mình, và rơi vào nỗi sợ hãi bị xa cách và bị bỏ rơi. Nỗi sợ hãi đó khiến chúng ta phải bảo vệ mình một cách quá đáng, thúc đẩy chúng ta chiến đấu để giữ những địa vị quyền lực của mình, đánh cắp năng lượng của những người khác và không ngừng cưỡng lại sự thay đổi và tiến hoá, dẫu những thông tin mới mẻ mà chúng ta nhận có là thế nào.
Trong khi sự thức tỉnh ý thức tiếp diễn, những thiên niên kỷ tiếp nối trôi qua, và con người dựa vào những nhóm càng lúc càng nhiều hơn; họ có xu hướng đồng nhất hoá với nhau, hoà nhập vào những tổ chức xã hội phức tạp hơn. Xu hướng đó bị ảnh hưởng bởi trực giác mơ hồ, nhưng hoàn toàn rõ ràng ở Cõi Bên Kia, rằng định mệnh của những con người trên trần gian là tiến đến sự hợp nhất. Theo trực giác đó, chúng ta đã vượt qua giai đoạn của lối sống du mục, sống bằng săn bắt hái lượm.
Chúng ta bắt đầu trồng cây và đều đặn gặt hái hoa trái. Chúng ta thuần hoá và chăn nuôi nhiều động vật, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp chất đạm và chất béo. Chìm sâu trong vô thức của chúng ta, những hình ảnh của Thế Giới Quan thôi thúc chúng ta theo một cách thức thuộc cổ mẫu (archetype – một trong những chủ đề lớn về vô thức tập thể, theo Jung).
Chúng ta bắt đầu mường tượng đến một trong những biến đổi ngoạn mục nhất của lịch sử nhân loại: tiếp theo sau lối sống du mục là sự hình thành những làng xã nông nghiệp.
Trong khi các cộng đồng dân cư trở nên phức tạp hơn, thì sự dồi dào hơn của lương thực khiến xuất hiện việc buôn bán và những nghề được chuyên môn hoá đầu tiên – chăm sóc súc vật, thợ xây và thợ dệt, sau đó là những người buôn bán, thợ rèn và binh lính. Một cách nhanh chóng, chữ viết và phép tính được phát minh. Nhưng những bất thường của thiên nhiên và các vấn đề của đời sống khiến cho ý thức của con người bị mờ đục; một vấn đề cơ bản tiếp tục làm họ bận tâm: Tại sao chúng ta hiện diện trên trái đất này? Lúc đó, tôi thấy Tầm Nhìn Khai Sinh của các cá nhân đang tìm kiếm thực tại Tâm linh ở mức độ cao hơn. Họ đã đến trần gian này để cho nguồn mạch thiêng thánh trở nên dễ đạt tới hơn đối với ý thức con người, nhưng những trực giác đầu tiên của họ về thần linh vẫn còn mơ hồ và không đầy đủ, và mang lại hình thức đa thần giáo. Trong sự bất an của mình, con người nghĩ rằng họ phải làm nguôi ngoai thần linh bằng cách dâng lễ hiến sinh và thực hiện những tế tự.
Trong nhiều ngàn năm, nhiều cộng đồng nông nghiệp đã hợp lại để tạo ra những nền văn minh rộng lớn tại Mesopotamia, tại Ai Cập, trong lưu vực sông Indus, tại Crete, ở miền bắc Trung Hoa; mỗi nền văn minh nghĩ ra cách diễn giải của mình về thiên nhiên và về những thần linh. Nhưng những thần linh đó không thể làm giảm bớt nỗi sợ hãi. Nhiều thế hệ linh hồn đi vào chiều kích trần gian với ý định mang đến thông điệp: Loài người sẽ tiến triển bằng cách chia sẻ kiến thức và đối chiếu chúng. Tuy nhiên, một khi hiện diện trên trần gian, những cá nhân đó phải chịu thua nỗi sợ hãi, và trực giác của họ biến thành một như cầu vô thức nhằm chinh phục, thống trị và áp đặt bằng vũ lực lối sống của họ lên những nhóm khác.
Thời đại của các đế chế và những bạo chúa đã bắt đầu như thế. Đến lượt họ, những bạo chúa lại bị chinh phục và lệ thuộc vào một nền văn hoá tiên tiến hơn, vững mạnh hơn. Trong nhiều thiên niên kỷ, các đế chế đã tự khẳng định, đã truyền bá những quan điểm của mình, vươn cao trong một thời gian, nhờ vào hiệu năng, ưu thế kinh tế hoặc quân sự, để sau đó bị lật đổ bởi một tầm nhìn mạnh mẽ và có tổ chức hơn. Ngay cả trong bối cảnh của một sự phát triển chậm, những tư tưởng lỗi thời cũng dần dà bị thay thế bởi những tư tưởng mới.
Cũng chậm rãi không kém tiến trình đó, những chân lý cơ bản dần dà tiến theo con đường của chúng, từ Cõi Bên Kia đến chiều kích vật chất.
Một trong những chân lý quan trọng – đạo đức mới của sự tương tác đã bắt đầu xuất hiện ở một số nơi trên thế giới, nhưng cuối cùng nó tìm được một thể hiện rõ ràng, trong sáng trong triết học của người Hy Lạp cổ đại. Ngay lúc ấy, tôi có thể trông thấy những Tầm Nhìn Khai Sinh của vô số con người được sinh ra trong lòng nền văn hoá Hy Lạp.
Qua nhiều thế hệ, họ đã nhận thấy những tổn thất và sự bất công của bạo lực thường xuyên do con người gây ra cho đồng loại của mình; họ biết rằng con người có thể vượt qua thói quen sử dụng bạo lực, và thiết lập một hệ thống mới mà ở đó người ta sẽ trao đổi và đối chiếu những ý tưởng: hệ thống đó sẽ bảo vệ quyền tối thượng của mỗi cá nhân nhằm gìn giữ tầm nhìn riêng mình, dẫu người đó mạnh hay yếu. Điều này đã được biết và áp dụng ở Cõi Bên Kia. Lối tương tác mới mẻ đó đã bắt đầu hình thành và lan toả trên Trái Đất; dưới hình thức chế độ dân chủ.
Thường khi, sự giao tiếp giữa con người bị suy thoái thành một cuộc tranh giành quyền lực, nhưng những cuộc đối đầu diễn ra ở mức độ lời qua tiếng lại hơn là sức mạnh thể lý.
Cùng lúc đó, đã có một khái niệm cơ bản khác hướng đến sự đổi mới hoàn toàn kiến thức về thực tại Tâm linh, và ý niệm này đã xuất hiện trong sử ký của một bộ tộc tại Trung Đông. Tôi cũng có thể thấy Tầm Nhìn Khai Sinh của những người bảo vệ khái niệm đó. Được sinh ra trong nền văn hoá Do Thái, những người đó đã biết rằng nếu chúng ta có lý khi, do trực cảm, tìm kiếm một nguồn mạch thần linh, thì sự mô tả về nguồn mạch đó thường là sai thực tế và bị bóp méo.
Như vậy là đã có sự xuất hiện trực giác về một nguồn mạch thần linh duy nhất trên toàn thế giới. Tại Trung Hoa và Ân Độ – những xã hội đã rất tiến bộ về mặt xã hội – Ấn giáo, Phật giáo và những tôn giáo khác đã làm cho phương Đông được ngưỡng mộ.
Những nhà sáng lập những tôn giáo đó đã có trực giác rằng Thượng Đế tượng trưng cho một sức mạnh, một tâm thức. Người ta chỉ có thể vươn đến Ngài bằng giác ngộ nội tâm. Thay vì làm hài lòng Thượng Đế bằng cách tuân theo những lề luật hoặc những nghi lễ, các tôn giáo phương Đông tìm cách gắn kết với Thượng Đế từ bên trong; hướng đến sự hài hoà và an lạc.
Cái ý tưởng về một Thượng Đế duy nhất – ý tưởng mà sau đó sẽ biến đổi các xã hội phương Tây – đã tiến hoá từ khái niệm về một Chúa Trời với uy quyền của một giáo trưởng, ở bên ngoài con người và luôn bận rộn bởi việc xét xử họ, đến ý tưởng về một Thượng Đế nội tại.
Con người đi vào chiều kích trần gian trong khi nhớ lại Tầm Nhìn Khai Sinh của mình, để đưa vào đó một năng lượng mới, một văn hoá mới có nền tảng là tình yêu thương. Thượng Đế duy nhất là một thần khí, một năng lượng thiêng thánh mà ta có thể cảm nhận sự hiện diện trong đời sống hằng ngày. Để đạt đến ý thức Tâm linh, ta cần phải làm nhiều điều hơn là những lễ nghi, những hiến tế và cầu nguyện. Điều đó có liên quan đến một sự đổi mới về Tâm linh dựa trên việc chế ngự những xu hướng của bản ngã và một sự ‘phó thác’ mang tính siêu nghiệm, giúp ta có thể gặt những hoa quả đích thực của đời sống Tâm linh.
Tuy nhiên, cho đến lúc ấy, mọi trải nghiệm về thế giới nội tâm – những trạng thái Tâm linh, sự cảm nhận về cái đẹp và tình yêu thương, những trực giác, những trùng hợp ngẫu nhiên, những hiện tượng liên cá nhân, và cả những giấc mơ – hầu hết bị gạt ra khỏi các lĩnh vực nghiên cứu của khoa học.
Sụ yên ổn vật chất gia tăng, và dần dà chúng ta để mất ý thức về sự huyền bí; xa rời những vấn đề thuộc về thế giới Tâm linh. Tiếp tục tồn tại và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn về vật chất cho chúng ta và cho con cháu, xem chừng là một mục tiêu khá đầy đủ. Dần dần, lan toả một quan niệm được đồng thuận, phủ nhận bí ẩn của cái chết và cho rằng thế giới là điều mà ta có thể hiểu và giải thích được.
Trước kia, chúng ta có trực giác mạnh mẽ rằng có một nguồn mạch Tâm linh, nhưng rồi trực giác đó đã yếu đi và ẩn nấp ở hậu cảnh. Trong một thế giới càng lúc càng theo chủ nghĩa vật chất, Thượng Đế dường như đã rút lui, sau khi đã tạo ra vũ trụ, để cho nó tự vận hành, như một cỗ máy với số phận đã được dự kiến. Mỗi hậu quả đều có một nguyên nhân; những sự kiện chẳng có một liên quan nào với nhau là điều rất hiếm khi xảy ra, và chỉ do ngẫu nhiên mà thôi.
Vào thế kỷ 19, chúng ta đã đi đến bên bờ của sự đảo lộn lần thứ hai, dựa trên khám phá của nguồn năng lượng mới. Được hưởng sự tiến bộ, một thế hệ mới với những trực giác của mình sẽ giúp nhân loại tiến đến một biến đổi lớn lao thứ ba.
Bối cảnh lúc này là sự tiến bộ của văn minh vật chất đã đẩy sự quan tâm đối với bí ẩn của đời sống và cái chết xa hơn vào hậu cảnh. Những nghi lễ được cử hành trong các giáo đường hầu như giả tạo và mất hết ý nghĩa. Bị ám ảnh bởi cách thức mà họ sẽ bị đánh giá, các tín hữu lui tới những nơi thờ phụng đó vì những lý do xã hội hơn là tôn giáo.
Nhờ khả năng phân tích, thế hệ mới biết đào sâu trực giác sâu sắc của mình, và tìm kiếm trong đời sống một điều gì đó hơn là thực tế vật chất.
Thế hệ đó cảm nhận sự ló dạng của một thức tỉnh Tâm linh mới, và bắt đầu khám phá những tín ngưỡng và những tiếp cận siêu hình ít được biết đến. Lần đầu tiên, các tôn giáo phương Đông được đông đảo người dân phương Tây quan tâm. Cái ý tưởng được lan truyền đó là trực giác về một kinh nghiệm nội tại, một bước nhảy vọt trong tâm thức làm thay đổi hoàn toàn quan niệm về nhân dạng và quan niệm về mục tiêu của đời sống.
Cũng trong thời gian đó, những dữ liệu được cung cấp bởi các nhà khoa học nhân văn (xã hội học, phân tâm học, tâm lý học, nhân loại học) và vật lý hiện đại, đã có một ánh sáng mới lên bản chất của ý thức và năng lượng sáng tạo. Kết hợp với quan điểm do phương Đông mang đến, tất cả những suy nghĩ đó đang bắt đầu kết tinh. Người ta hiểu rằng loài người mới chỉ thực hiện một phần rất nhỏ tiềm năng thể lý, tâm lý và tinh thần của mình.
Trong vài thập niên, những nghiên cứu đó và những trải nghiệm Tâm linh do chúng gợi lên đã gia tăng và biến thành một khối lượng tới hạn để gây ra phản ứng dây chuyền, tạo ra một bước nhảy vọt của tâm thức.
Chẳng mấy chốc, loài người có thể hình thành một quan niệm mới về mục tiêu của đời sống, đặc biệt liên quan đến mặc khải thứ chín.
Tuy nhiên, ngay khi quan niệm mới đó thành hình và được truyền bá rộng khắp, khi nhiều thành viên của thế hệ mới bắt đầu thoái bộ do lo sợ trước sự bất ổn xã hội gia tăng, một điều có vẻ tương ứng với sự xuất hiện của mô thức mới. Trong nhiều thế kỷ, thế giới quan cũ đã duy trì một trật tự chính xác, thậm chí cứng nhắc. Mọi vai trò đều đã được xác định một cách rõ ràng và mọi người đều biết vị trí của mình trong xã hội.
Những gia đình hạt nhân có tính gắn bó. Các công dân tìm kiếm vị trí của họ trong nền kinh tế và mục tiêu của họ trên trần gian là đạt được sự sung túc và tạo ra một thế giới thịnh vượng hơn trên bình diện vật chất cho thế hệ kế tiếp.
Nhưng rồi tiếp đến là làn sóng của những thắc mắc, phân tích và phê phán. Con người tìm cách vươn đến cái ý tưởng lờ mờ, không rõ ràng về tiềm năng. Trong một bối cảnh như thế, những gì mà người khác nghĩ không còn là yếu tố quyết định cho những hành động và ứng xử của chúng ta; càng lúc chúng ta càng tuân theo sự nhạy bén nội tâm.
Đối với những ai thực sự chọn một quan niệm Tâm linh chân thành, dựa trên sự lương thiện, chính trực và yêu thương tha nhân, thì một động thái bị chi phối bởi đạo đức không đặt ra vấn đề. Nhưng đáng lo ngại là hoàn cảnh của những người đã mất những nguyên tắc sống trước đó, mà không thể xác định cho mình một chuẩn mực mới. Những người đó như rơi vào một hoang địa của tâm thức.
Rất nhanh chóng, một sự phân cực hình thành trên thế giới trong khi những người bất định phản ứng chống lại một quan niệm mà theo họ, dẫn đến sự hỗn loạn và tình trạng bấp bênh, thậm chí cả sự tan rã hoàn toàn lối sống của họ. Nhiều người trong số họ cho rằng thế giới lý tưởng hầu như đã tiêu tan.
Lúc đó, tôi mới hiểu về ảnh hưởng đang gia tăng của những người cho rằng có thể giải thích tình trạng đó bằng cách loan báo về Ngày Tận Thế, điều mà Joel đã nói với tôi trước đây. Trong không khí sôi sục gây ra bởi thời kỳ quá độ, những nhà tiên tri về thảm hoạ bắt đầu phát triển quyền lực của họ. Theo họ, Sách Khải Huyền trong Thánh Kinh phải được hiểu sát từng chữ, và tình trạng bấp bênh trong thời đại chúng ta là do Ngày Tận Thế đang đến gần: Chẳng mấy chốc sẽ xảy ra một cuộc thánh chiến đẫm máu giữa những lực lượng của bóng tối và những đạo quân của ánh sáng. Trong một bối cảnh như thế, người ta phải gấp rút chọn chỗ đứng trước khi bắt đầu những trận chiến.
Nhưng, ở bên kia những phản ứng sợ hãi, Tầm Nhìn Khai Sinh của những người cùng thời với tôi hàm chứa rất nhiều chỉ dẫn, như trong trường hợp những khúc quanh lịch sử có tính quyết định khác. Tất cả, dẫu địa vị của họ là gì, đều đến trần gian với mong ước làm dịu bớt sự phân cực. Họ muốn chuyển quan niệm của thế giới duy vật sang một quan niệm mới thuộc Tâm linh; họ muốn gìn giữ cái tốt đẹp nhất của truyền thống cũ và đưa nó vào thế giới mới đang nổi lên.
Những sai trái không xuất phát từ dự tính ban đầu của mỗi người, mà từ nỗi sợ hãi. Thị kiến ban đầu của chúng ta hướng dẫn chúng ta rằng đạo đức xã hội có thể được gìn giữ trong khi vẫn đảm bảo tự do của mỗi người. Việc đưa vào một mục tiêu Tâm linh quan trọng sẽ giữ vững tính sáng tạo trong đời sống, và sẽ đổi mới nó
Ý thức của tôi càng gia tăng và, như khi thấy Tầm Nhìn Khai Sinh của Maya, tôi hầu như có thể thấy bức tranh đầy đủ của lịch sử nhân loại, cách thức mà chúng ta sẽ hoà giải những xu hướng đối nghịch và hoàn thành định mệnh con người của chúng ta. Rồi, đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng và không thể tập trung được nữa; tôi không còn có thể giữ mức năng lượng cần thiết để nắm bắt viễn cảnh.
Thị kiến của tôi bắt đầu mờ đi, khi lần cuối thấy rõ hoàn cảnh hiện tại.
Nếu không có ảnh hưởng của thế giới quan, thì sự phân cực của nỗi sợ hãi sẽ tiếp tục gia tăng.
Sau một lúc chóng mặt, tôi có cảm giác bị lôi đi bởi một chuyển động nhanh. Tôi nhìn quanh và thây Wil ở cạnh tôi. Anh liếc nhanh tôi với vẻ ưu tư. Khung cảnh màu xám bao quanh chúng tôi. Chúng tôi đã đến một địa điểm mới.
Wil hỏi:
– Cậu đã thấy tầm nhìn về lịch sử của tôi rồi chứ?
Anh nhìn tôi, nói tiếp:
– Đó là một giải thích mới mang tính Tâm linh vể lịch sử, đôi chút bị ảnh hưởng bởi quan niệm của cá nhân, nhưng cho ta biết rất nhiều điều.
Tôi chưa từng thấy một tầm nhìn nào như thế trước đây. Cái phần đó của mặc khải thứ mười cho ta một cái nhìn rõ nét về sự tìm kiếm của nhân loại, như người ta có thể thấy trong Cõi Bên Kia. Mỗi người chúng ta chào đời với một dự tính tích cực về cuộc đời và cố mang đến trần gian một phần kiến thức của Cõi Bên Kia. Đó là ý định của tất cả chúng ta. Lịch sử chỉ là một quá trình thức tỉnh. Đương nhiên, khi chúng ta sinh ra trong thế giới vật chất, thì chúng ta được giáo dục và đưa vào đời sống cộng đồng trong thực tế văn hoá của thời đại mà chúng ta xuất hiện. Lúc đó, chúng ta chỉ nhớ đến những trực giác của mình, để làm một số điều.
Nhưng chúng ta phải không ngừng chiến đấu chống lại nỗi sợ hãi.
Thường khi nỗi sợ hãi là quá lớn lao đến nỗi chúng ta không thể thực hiện những dự định của mình, hoặc chúng ta bóp méo chúng bằng cách này hay cách khác. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng mỗi người chúng ta đều đến trần gian với những ý định tốt.
– Vậy, anh cho rằng một kẻ giết người hàng loạt cũng đến trần gian với ý định tốt?
– Đúng, vào lúc đầu. Hành động giết người đều là một bùng nổ của cơn phẫn nộ, một cách để tự giải thoát khỏi một đè nén, để chế ngự một cảm giác bất lực và nỗi sợ hãi.
– Liệu có những người bản chất là xấu?
– Không, nỗi sợ hãi làm họ điên loạn và đẩy họ đến chỗ phạm những sai lầm khủng khiếp. Và họ phải chịu trách nhiệm. Những hành động tồi tệ phần nào do xu hướng xem một số người là xấu xa gây ra. Quan niệm sai trái của chúng ta về bản tính con người nuôi dưỡng sự phân cực.
Người này nghĩ người kia là xấu xa, người này làm mất nhân phẩm của người kia. Điều đó làm gia tăng nỗi sợ hãi và sự tệ hại trong mỗi nguời Tôi nhận thấy Wil một lần nữa nhìn về xa xăm, Hướng theo mắt anh và chú ý đến bối cảnh, tôi bắt đầu có cảm giác buồn thảm vì một dự báo chẳng lành.
Wil nói:
– Chừng nào chưa hiểu được bản chất thực sự của cái ác và thực tế của địa ngục, thì chúng ta chưa thể đưa Thế Giới Quan vào trần gian cũng như chấm dứt sự phân cực.
– Tại sao anh nói thế?
Wil lại nhìn tôi, rồi hướng mắt về khung cảnh xám xịt xung quanh:
– Vì chúng ta đang ở cửa địa ngục.
Video: Trích đoạn
Nguồn Internet
✍️ Mục lục: Lời tiên tri Núi Andes – Mặc Khải thứ 10 👉 Xem tiếp